Đồng hành cùng cả nước đón mừng đại
lễ Ngàn năm Thăng Long, thủ đô Hà Nội đang gấp rút hoàn thành những công trình
văn hoá, lịch sử.....trong đó có việc lập lại 5 cửa Ô. Ban Văn hóa -
Du lịch của Hiệp hội dừa Việt Nam xin góp thêm phần tư liệu về địa danh Ô Chợ
Dừa nhân Đại lễ Ngàn NămThăng Long.
Lần theo lịch sử, khảo cứu, được biết
và hiểu thêm bao điều về Hà Nội xưa với những biến đổi thăng trầm của La
Thành, Hoàng thành Thăng Long , 5 cửa Ô . Đặc biệt tên Ô Chợ Dừa, một cái
tên rất dân dã nhưng cũng đầy kỳ thú.
Theo Đại Việt Sử Ký
Bản Kỷ Toàn Thư Quyển II, Kỷ Nhà Lý, trước khi có 2 chữ cửa ô thì Thăng
Long thành (hoàng thành) được xây dựng và mở ra 4 cửa theo 4 hướng:
1.
Đông là cửa Tường Phù
2. Tây là
cửa Quảng Phúc
3.
Nam là cửa Đại Hưng
4.
Bắc là cửa Diệu Đức.
Tư liệu của bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du lịch, từ nguồn http://www.cinet.gov.vn/sukienVH/hoangthanh/hoangthanh.htm#coinguon, ngoài hoàng
thành còn có lớp thành khác ấy là thành Đại La vừa là đê bao ngăn lũ, vừa để
bảo vệ cho Hoàng thành, thành Đại La có 5 cửa:
1. Triều Đông (dốc Hòe Nhai)
2. Tây Dương (Cầu Giấy)
3. Trường Quảng (Ô Chợ Dừa)
4. Cửa Nam (Ô Cầu Dền)
5. Vạn Xuân (Ô Đống Mác)
Các cửa này chính là lối ra vào thành, có vọng
gác, chốt chặn để kiểm soát, thu thuế và bảo vệ cuộc sống trong thành.
Thời Nguyễn, theo một số sách cũ để
lại có đến 16 cửa ô được xây dựng vào đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786) và phần
lớn đều được xây bằng gạch rất chắc. Hầu hết các cửa ô đều thông ra sông Hồng
và sông Tô Lịch: ở phía tây có 2 cửa, phía nam có 3 cửa, ra sông Hồng có 11
cửa.
Vào thời đó đường giao thông nối
Thăng Long với các vùng khác chủ yếu là đường sông, vì thế dọc theo sông Hồng có
nhiều bến bãi, phố xá đông đúc, buôn bán sầm uất. Các cửa ô được thay đổi tên gọi cũng
như vị trí hoặc có khi hủy bỏ cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của từng thời
kỳ phát triển của đất nước. Cho đến sau cách mạng Tháng Tám thì Hà Nội “còn lại”
5 cửa ô qua bài hát “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao và bài “Người Hà
Nội” của Nguyễn Đình Thi. Và cho đến bây giờ thì Hà Nội chỉ còn xót lại mỗi Ô
Quan Chưởng là có dấu tích hình hài, còn lại chỉ là những địa danh: Cầu Dền,
Cầu Giấy, Đống Mác, Chợ Dừa.
Sau khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn
sáng lập vương triều Lý từ năm 1009. Tháng 7 năm 1010, nhà vua cho dời đô từ
Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Ngay sau đó, nhà vua đã khẩn
trương cho xây dựng một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đình
và hoàng gia, nên chỉ trong vòng vài tháng, đến cuối năm 1010 thì đã hoàn thành
8 điện 3 cung. Trong năm đầu tiên, một vòng thành bao quanh các cung điện cũng
được xây đắp xong, gọi là Long Thành hay Phượng Thành và những năm sau, một số
cung điện và chùa tháp cũng được xây dựng thêm.
Phía ngoài, cùng với một số cung điện
và chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán, làm ăn của dân chúng gồm các bến
chợ, phố phường và thôn trại nông nghiệp. Đó chính là Hoàng Thành (theo
cách gọi phổ biến về sau này).
Qua các biến cố lịch sử, kinh thành
có nhiều thay đổi và chuyển dời. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, Pháp phá thành Hà Nội
xây “khu phố Tây”, khu nhà binh Pháp, sân vận động Mangin (nay là Trung tâm Thể
dục thể thao quân đội), nên hầu như tất cả khu vực hoàng thành đều bị phá hủy.
Cho đến ngày nay thì đây cũng chính là thủ đô của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam .
La thành
là một phần không thể tách rời của hoàng thành Thăng Long, bởi La thành còn
chính là vòng thành bảo vệ và cũng chính là con đê ngăn lũ cho hoàng thành.
Lần lại lịch
sử, từ giữa thế kỷ V (454 - 456) nơi đây đã hình thành thị trấn huyện lị Tống
Bình do đế quốc phương Bắc thời Lưu Tống đặt ra.
Tiến sĩ Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á có nói:
…Sau khi
đánh đuổi quân Lương vào thế kỷ thứ VI, Lý Bí
xưng đế, lập nước Vạn Xuân, khẳng định một vương quốc tự chủ, cho xây thành
bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch. Đây là lũy thành quân
sự được Lý Nam Đế xây dựng từ trước. Và sau khi thất trận ở Chu Diên (vùng Hưng
Yên, Hà Nam), quân đội nước Vạn Xuân đã rút về cố thủ tại đây. Chúng ta chưa có
nhiều bằng chứng để khẳng định lũy thành này là kinh đô của nước Vạn Xuân đương
thời. Thế nhưng, triều đình nước Vạn Xuân đã có hoạt động dày đặc ở vùng quanh
Hà Nội ngày nay như Long Biên, Ô Diên, Dạ Trạch…
Theo Đại
Việt Sử ký ngoại kỷ toàn thư của Ngô Sỹ Liên Quyển IV, trang Kỷ nhà Tiền Lý (nguồn
http://www.informatik.uni-ipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt04.html):
… Vua
họ Lý, tên húy là Bí , người Thái Bình [phủ] Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc,
cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7
đời thì thành người Nam. Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp
loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá
ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi được, xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là
Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên…
Từ đây ta thấy Lý Nam
Đế đã có tầm nhìn chiến lược về vị trí của Thăng Long thành từ giữa thế kỷ thứ
VI.
Cũng theo Đại
Việt ngoại kỷ toàn thư, quyển IV, kỷ nhà Tiền Lý: Quý
Hợi, năm thứ 3 [543], (Lương Đại Đồng năm thứ 9). Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm Ấp
cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức.
Sau khi
chiến thắng quân Lâm Ấp, Phạm Tu đã bắt khoảng 5.000 tù binh Chiêm Thành (gồm
cả dân thường) đem về Vạn Xuân. Và nhân lực để xây thành ở cửa sông Tô Lịch không
thể nào không có công sức của tù binh Chiêm Thành thời ấy.
Xin nói
thêm 1 chút về Vương quốc Champa xưa, còn gọi là Chiêm Thành gồm 2 bộ tộc chính
là : Cau và Dừa. Bộ tộc Cau chiếm lĩnh phía Nam và Bộ tộc dừa chiếm lính
phía Bắc. Vào giữa thế kỷ thứ II, Vương quốc Champa phát triển hùng mạnh, dưới
sự lãnh đạo của Khu Liên, thuộc Bộ tộc Dừa, đã lập nên nhà nước mới với tên gọi
là Lâm Ấp. Vì là bộ tộc Dừa, theo tín ngưỡng truyền thống, nên đi bất cứ nơi
đâu, người Chăm luôn mang dừa theo để làm lễ vật thờ cúng trời đất, thần linh
theo nghi thức của mình. Cụ thể là tại Yên Sở, sau khi đánh tan quân Lâm Ấp, võ
tướng Phạm Tu - Lý Phục Man đã đưa rất nhiều tù binh Lâm Ấp (kể cả dân thường) về
quê mình, nay cũng còn một số giếng Chăm và nơi đây cũng đã trồng rất nhiều dừa
nên có thời gian làng Yên Sở được gọi là làng Dừa.
Và
đây là giả thiết thứ nhất cho sự xuất hiện của cây
dừa ở Vạn Xuân để hình thành ngôi chợ dưới bóng dừa. Giả
thiết này được củng cố bởi tại làng Yên Sở (còn được gọi là làng Giá), huyện Hoài
Đức ngoại thành Hà Nội, nay vẫn còn đền thờ của vị tướng này và chính quyền địa
phương cũng đang có ý định phục hồi lại cây dừa sau nhiều thăng trầm cùng cơ
chế thị trường và sâu bệnh. Ngoài ra đây cũng là nơi có đặc sản bánh gai lá dừa
nổi tiếng của Kinh Bắc. Hàng năm cứ vào ngày mùng 10 tháng Ba là có hội Làng
Giá để tưởng nhớ công ơn vị tướng tài này. Đặc biệt Hội Giá có tích nghiềm
quân, diễn tả cuộc chiến tranh nhân dân của Tướng công Lý Phục Man - Phạm Tu
năm Nhâm Tuất (542).
Xin
trở về địa danh Ô Chợ Dừa.
Tư liệu
đầu tiên được tìm thấy về Ô Chợ Dừa chính là:
1. Ô Thịnh Quang, tên Nôm là Chợ Dừa, sau
đổi là Thịnh Hào
2.
Tại cửa ô này có 1 ngôi chợ đươc họp
dưới bóng dừa
Ngôi chợ
dưới bóng dừa chính là cơ sở để có địa danh tiếng Nôm là Ô Chợ Dừa.
Hãy tiếp
tục lần giở lịch sử để có thêm cái nhìn
tổng quan về địa danh này:
Thành
Đại La đời Lý mở các cửa: Triều Đông (dốc Hòe Nhai), Tây Dương (Cầu Giấy), Trường
Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền), Vạn Xuân (Ô Đống Mác). Thành Đại La
được bao bọc mặt ngoài bởi ba con sông: sông Nhị, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu
và được tận dụng như những con hào tự nhiên…
Vậy, có
thể hiểu 1 cách nôm na: thành Đại La được gia cố và xây dựng lại từ năm 1014
nghĩa là sau 14 năm, từ khi hoàng thành Thăng Long bắt đầu xây dựng và được mở
ra 5 cửa. Cửa Trường Quảng chính là nơi có ngôi chợ dưới bóng dừa ấy (khi nhà
Lê xây dựng lại Hoàng thành thì các cửa thành lúc ấy được gọi là cửa ô). Vì
vậy, ngoài Hán danh là Ô Thịnh Quang, Thịnh Hào còn có 1 cái tên Nôm là Chợ Dừa,
do Chợ Dừa đã tồn tại trước đó.
Theo
Thượng Kinh ký sự, phần Đến Kinh Thành (đoạn gần cuối) của Hải Thượng Lãn Ông -
Lê Hữu Trác viết khi ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo)
tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên
Phi Đặng Thị Huệ) năm 1782 thì cửa Vũ Quan (Ô Chợ Dừa), được mô tả như sau:
…cùng
đi theo cửa Vũ Quan, nhắm cửa thành mà vào. Tôi thấy một cái thổ thành không
cao lắm, kế bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tuờng ngựa đi được; phía ngoài
là hàng rào tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là
mười phần kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có
quân lính đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết.
Lính giữ cửa thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến
khi biết rõ đầu mối, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn đất Nghệ An, mới để
cho đi…
Và theo nhà
Hà Nội học Hoàng Đạo Thúy về quang cảnh ô Chợ
Dừa:
…Có
những hôm cửa ô Chợ Dừa tấp nập lạ thường. Đó là những ngày triều đình ra quân.
Quan tướng nhận chiếu chỉ, lạy từ vua trước sân rồng rồi lên xe. Vua xuống bệ,
đặt tay vào lưng xe, đẩy làm phép một cái, gọi là “đẩy xe” để tỏ lòng tin cho
quan quân yên tâm đi đánh giặc. Cờ mở, trống dong, các bạn đồng liêu đi tiễn.
Tướng ra cửa ô, kéo lá cờ to có chữ họ của mình lên, cửa ô đóng lại. Sau đó,
tướng lại “vi hành” về nhà để thu xếp, hôm nào xong xuôi mới trẩy thật. Những
hôm có quan đóng như vậy, dân quanh cửa ô đi lại rầm rập, hàng quán bán đắt như
tôm tươi. Lại có những hôm quân hồi vô lệnh, giáo mác lỏng chỏng, quân lính mất
tăm. Nhân dân rầm rập chen ra khỏi cửa ô.…
Qua những
dữ liệu trên, xét về vị trí địa lý thì cửa Trường Quảng (Vũ Quan, Thịnh Quang,
Thịnh Hào) Ô Chợ Dừa chiếm 1 vị trí quan trọng trong các cửa Ô, và Đàn Xã Tắc cũng
nằm ngoài cửa Trường Quảng - Ô Chợ Dừa. Giáo sư Nguyễn Văn Hảo nguyên Phó viện trưởng
Viện Khảo cổ học trả lời trên báo Thanh Niên như sau:
… Đàn
xã tắc là một loại đàn tế. Đây là nơi mà hằng năm vua đến hành lễ, tế thần đất
và thần ngũ cốc. Theo sách Bạch hổ thông - xã tắc của thời Hán: "Vua phải
có đàn xã tắc để cầu phúc và báo công với thiên hạ. Con người không có đất
không ở vào đâu được, không có lương thực thì không có cái để ăn. Đất đai lại
quá sâu rộng, không thể đi tế lễ khắp nơi, ngũ cốc cũng quá nhiều, không thể tế
lễ từng loại, do vậy phải chọn đất để lập xã tôn kính đất đai.
Tắc là
tên gọi một loại nông sản lương thực (có sách gọi là cốc tử: túc - thóc) đứng
đầu trong hàng trăm loại lương thực, phải lập tắc để tế lễ". Thời xưa
người ta coi thần đất và những nơi tế lễ thần là xã. Xã tắc còn được dùng để
gọi thay cho quốc gia. Đàn Xã Tắc lập ở chỗ nào có quy định rõ ràng. Theo sách
Lễ ký, tế nghĩa thì đàn Xã Tắc phải lập ở bên hữu (phía tây thành), còn nơi thờ
tổ tông của vua phải lập ở bên tả (phía đông thành).
Theo Đại
Việt sử ký toàn thư thì đàn Xã Tắc thời Lý được lập "ở ngoài cửa Trường
Quảng". Cửa Trường Quảng ở đâu thì đến nay chưa rõ! Còn theo Đại Nam nhất
thống chí thì đàn Xã Tắc thời Lý được lập "ở địa phận huyện Vĩnh Thuận về
phía tây nam tỉnh thành, đắp từ năm Lý Thiên Cảm, Thánh Vũ thứ 5 (1048) nay còn
nền cũ ở Thịnh Hào" …
Từ đó ta
thấy tầm quan trọng của cửa Trường Quảng (Ô Chợ Dừa) với kinh thành Thăng Long
và tại sao Ô Thịnh Quang (Thịnh Hào) lại có tên Nôm là Ô Chợ Dừa.
Những
hình ảnh về Hà Nội xưa được đăng rộng rãi trên mạng internet và các
trang viết về về Hà Nội đã ghi lại quang cảnh Hà
Nội vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tuy không có bức ảnh nào ghi cụ thể
là Ô Chợ Dừa, nhưng những hình ảnh quanh khu vực Hồ Tây, làng Yên
Thái (khu vực bên trong thành Đại La) thì thấy dừa được trồng
rất nhiều. Có phải chăng sau khi chiến thắng quân Lâm Ấp, ngoài số tù binh được
tướng Phạm Tu Lý - Phục Man đưa về quê
mình ở làng Yên Sở thuộc huyện Hoài Đức, thì còn có số khác được đưa về để xây
dựng lũy thành Tô Lịch? Và đây cũng là một minh chứng cho sự có mặt của bức
Hứng Dừa trong tranh dân gian Đông Hồ khi nói về nét sinh hoạt của dân tộc ta
cách nay hơn 500 năm.
Một khu
dân cư ở quanh Hồ Tây
làng Yên Thái
và trên 1 số đường xá ở Hà nội xưa cũng thấy thấp thoáng
bóng dừa
Một đoạn kè hồ Tây dang dở từ
nhiều tháng nay (Ảnh: ANTĐ)
Hứng dừa
( tranh Đông Hồ)
Theo
tiến sỹ Bá Trung Phụ, hiện đang công tác ở Bảo tàng LS VN tại TP HCM. Trong
những di vật được phát hiện tại di chỉ khảo cổ của Hoàng thành Thăng Long có 2
viên ngói khắc chữ Phạn và 1 số di vật khác mang phong cách Chăm. Từ đó,
ta có thể nhận định, trong số những nghệ nhân được chọn để xây dựng Thăng Long thành có cả người Chăm.
Và đây
có phải là giả thiết thứ hai về sự hiện diện của cây dừa về ngôi chợ dưới bóng
dừa ở cửa Trường Quảng là: đã có một bộ phận người Chăm sinh sống nơi đây trong
thời gian Hoàng thành được xây dựng.
Rất
tiếc, ngoài Ô Quan Chưởng hiện nay còn hiện hữu, thì hình ảnh và tư liệu xưa về
các cửa Ô cũng không có nhiều. Vì vậy,
trong khuôn khổ hạn hẹp của 1 tham luận, chúng tôi không thể nói thêm được
gì nhiều hơn.
Qua
nhiều biến đổi thăng trầm của lịch sử, ngày nay Ô Chợ Dừa chỉ còn là cái tên cổ
mà hầu hết moii người đều không biết đến lai lịch của nó. Nhưng với vai trò là một trong những cửa
ngõ giao thông chính của thủ đô Hà Nội thì Ô Chợ Dừa vẫn giữ một vị trí quan
trọng. Ngoài Đàn Xã Tắc, tại nơi đây hiện tập trung rất nhiều cơ quan nghiên
cứu thuộc Bộ Văn hóa, có nhạc viện, có trường viết văn Nguyễn Du, có trường Đại
học Mỹ thuật Công nghiệp, có Gò Đống Đa, có đình Hào Nam, chùa Xã Đàn linh
thiêng và rất nhiều trường đại học quanh đó. Ô Chợ Dừa còn có phố Khâm Thiên,
đã từng nổi danh với ‘‘lối hát ả đào’’ và cũng chính là nơi mà đồng bào ta phải
chịu nhiều hy sinh mất mát trong chiến dịch 12 ngày đêm mà Đế quốc Mỹ muốn san
bằng Hà Nội. Quả thực Ô Chợ Dừa là mảnh đất địa linh nhân kiệt đã chứng kiến
bao thăng trầm biến đổi của lịch sử .
Từ những
tư liệu lịch sử, những bài viết, lời của các nhà khoa học xã hội có uy tín, chúng
tôi hy vọng bài tham luận nhỏ này có thể cho ta ít nhiều hình dung được toàn
cảnh ô Chợ Dừa qua những tên gọi khác nhau của từng giai đoạn như : cửa
Trường Quảng, cửa Vũ Quan, Ô Thịnh Quang, Ô Thịnh Hào… và tầm quan trọng của
cửa ô này trong suốt bề dày lịch sử của dân tộc./.