Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012
Giảm xì - trét
Cả ngày bao công việc
Chừ mới về tới nhà
Tắm gội xong mở máy
Giảm stress
Vầy sao ta?
Thế giới này rất thật
Khi ta sống chân tình
Dẫu chẳng thấy bóng hình
Mà xiết bao tình nghĩa...
Vì thế giới vô hình
Nên cửa nhà toang mở
Vì thế giới vô hình
Nên chẳng màng hơn thua...
______________
Chúc các bạn ngủ ngon, KT đi ngủ đây, mai lại tiếp tục đi xưởng.
Chừ mới về tới nhà
Tắm gội xong mở máy
Giảm stress
Vầy sao ta?
Thế giới này rất thật
Khi ta sống chân tình
Dẫu chẳng thấy bóng hình
Mà xiết bao tình nghĩa...
Vì thế giới vô hình
Nên cửa nhà toang mở
Vì thế giới vô hình
Nên chẳng màng hơn thua...
______________
Chúc các bạn ngủ ngon, KT đi ngủ đây, mai lại tiếp tục đi xưởng.
Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012
ƯƠNG DỞ
ƯƠNG DỞ
Người xưa cho rằng
tuổi ngũ tuần
vào hàng tri thiên mệnh
Vậy mà ta
gần lục tuần
vẫn cứ ngu ngơ
gần lục tuần
vẫn cứ ngây ngô
ương ương dở
học trời
quên đất
ương ương dở
nói sau
quên trước
nên cuối cùng
dở dở ương ương
Người xưa cho rằng
tuổi ngũ tuần
vào hàng tri thiên mệnh
Vậy mà ta
gần lục tuần
vẫn cứ ngu ngơ
gần lục tuần
vẫn cứ ngây ngô
ương ương dở
học trời
quên đất
ương ương dở
nói sau
quên trước
nên cuối cùng
dở dở ương ương
Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012
Góc khuất
Bỗng thấy
tiếc cái "sự cho" của mình, A bèn nhắn tin cho
B về "cái giếng
cạn và sợi dây
gàu". Vẫn ôm chặt cái "được
cho" lang thang tìm về miền ký ức, nên khi nhận được tin
nhắn, B đã cồn lên niềm hi vọng...
Cuộc đời là thế, người ta thường chỉ nuối tiếc những gì đã mất nên con thạch sùng vẫn luôn tắc lưỡi trong đêm...
Nhìn hoa súng và cái "bóng" (hổng biết nên gọi là ảnh hay bóng khi được chiếu xạ trên mặt nước???). Rõ ràng cái "bóng" sắc nét hơn, nó không bị chi phối bởi ánh sáng và background (hậu cảnh).
Qua hình ảnh này, ta hiểu thêm được một điều: mặt nước là gương soi hoàn hảo, nó biết xóa bỏ những gì không thực để có được cái thực...
Tại sao chỉ có nước mới làm được điều đó?
Vì: nước luôn có chiều sâu!
Cuộc đời là thế, người ta thường chỉ nuối tiếc những gì đã mất nên con thạch sùng vẫn luôn tắc lưỡi trong đêm...
Nhìn hoa súng và cái "bóng" (hổng biết nên gọi là ảnh hay bóng khi được chiếu xạ trên mặt nước???). Rõ ràng cái "bóng" sắc nét hơn, nó không bị chi phối bởi ánh sáng và background (hậu cảnh).
Qua hình ảnh này, ta hiểu thêm được một điều: mặt nước là gương soi hoàn hảo, nó biết xóa bỏ những gì không thực để có được cái thực...
Tại sao chỉ có nước mới làm được điều đó?
Vì: nước luôn có chiều sâu!
______________
(Viết rồi đọc lại, hổng hiểu mình viết gì mới đau.
Đó là minh chứng cho sự thiếu đồng bộ giữa tư duy và ngôn ngữ. Học nữa, học nữa
thôi!)Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012
MẸ
MẸ
Chỉ có lòng mẹ bao la là vô
gía
Hiện hữu trên cõi đời
này
Mẹ
Tuổi già đã
đến
Bước chân run
run
Sớm trưa quên nghỉ
Mẹ
Muốn san sẻ cùng con
Nỗi nhọc nhằn
Con đã bao lần xin mẹ
Mẹ ơi,
Hãy nghỉ!
Móm mém mẹ cười
Có chi!
Mẹ gìa
Kém ngủ, kém ăn
Con xin mẹ
Mẹ ơi,
Hãy cố!
Mẹ cười móm mém
Chớ lo.
. . .
.
Con thương mẹ cả đời tần tảo
Dãi nắng dầm mưa,
Lặn lội thân cò
Một mình mẹ
Âm thầm chiếc bóng,
Nuôi dạy con
Đếm tháng, mong ngày
. . .
.
Nay con lớn,
Cuộc đời tất bật
Phải ngược xuôi
Xuôi ngược giữa dòng . . .
Mẹ xót xa
Con mẹ khổ,
Nhưng sao bằng mẹ
Mẹ ơi . . . . .
________________
Vu lan về, đã hơn 1 năm
rồi, mẹ rời xa chúng con. Sự ra đi đột ngột của mẹ, được mọi người khen tốt,
nhưng riêng với con, đó là nỗi ray rứt không nguôi. Bởi con còn nhiều điều vẫn
còn để mẹ lo lắng trở trăn. Mẹ lo cho công việc của con, mẹ lo cho hạnh phúc vợ
chồng con vì mỗi đứa 1 nẻo, mẹ lo cho cu Bi chậm chạp hiền lành, mẹ lo cho bé Nhi mong manh nhỏ bé,...
Mẹ ơi, tháng 5 vừa rồi anh
Thành mới về hưu, nhưng lại phải về quê để lo cho ba má con vì năm nay ông bà
nội các cháu bắt đầu yếu rồi. Các cháu của mẹ cũng đã lớn khôn hơn 1 chút, công
việc của con cũng đã bắt đầu khởi sắc (con tin như vậy).
Con đang cố hết sức để dồn
sức cho công việc, để mẹ an lòng. Con hiểu, con hiểu lắm sự lo lắng ngày đêm mẹ
đã dành cho con. Con đang hết sức cố gắng đây mẹ. Con đang hết sức cố gắng. Hãy tin
con mẹ nhé!...
Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012
BÁN GÁO DỪA
3g45 đã đậy để chuẩn bị ra công trình.
Lâu lắm rồi, dễ cũng đã gần 4 năm mới có
được cái sự nôn nả ra công trình như ri.
Chả là có hợp đồng cung cấp vật liệu gáo dừa làm phòng mẫu cho một dự án khá "bự" tại Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngay từ đầu (cách đây gần nửa năm), có 1 công ty sản xuất hàng nội thất đã liên hệ với mình về dự án ni, nhưng thiệt là buồn, vì sau khi tính kích thước module (đơn vị chi tiết sản phẩm), làm mẫu, chia sẻ với họ toàn bộ những giải pháp thực hiện, thì họ lại ký hợp đồng với đơn vị khác. Lý do: bên kia chào giá thấp hơn. Đau vì bị phản bội, nên tới nay, dù đã được gọi điện nhiều lần mình vẫn chưa đến để thanh toán tiền hàng mẫu. Và hôm qua cũng đã đến xem phòng mẫu họ đã làm tại công trình. Màu sắc tái xám, bợt bạt. Đơn vị gia công cung cấp vật liệu đã dùng nguyên liệu non quá nhiều, nên phải dùng đến thuốc tẩy để xử lý sắc độ.
Trước khi dắt mình sang thăm phòng mẫu của công ty nọ, nhà đầu tư đã xem xét rất kỹ vật liệu mình cung cấp, họ đã khen: đẹp, đa sắc và ấm áp (điều này đơn vị thi công cũng đã nói với mình).
Vâng, gáo dừa là thế. Nếu để tự nhiên, dù non hay già, gáo dừa cũng đều thể hiện sự mộc mạc ấm áp, nhưng khi đã bị buộc thoát khỏi bản chất vốn dĩ, gáo dừa ngay tức thì trở nên vô hồn lạnh lẽo. Và đó chính là lý do vì sao mình không bao giờ buộc gáo dừa thoát ra khỏi bản thân nó. Mình yêu gáo dừa bởi sự mộc mạc và ấm áp của sắc độ, bởi sự đanh cứng không bao giờ mục ruỗng, bởi sự mềm yếu mong manh khi còn non tơ. Các bạn thấy đó, dừa non, sau khi bị uống hết nước, người ta vứt đi, nó lập tức trở nên đen đúa, móp méo đến thảm hại. Khi đã chín, dừa vừa cho ta nước ngọt, vừa cho sự béo thơm của nước cốt, vừa cho ta chiếc gáo đã được sừng hóa bền bỉ với thời gian, với nhiều sắc độ lung linh ấm áp, nếu ta hiểu và biết bóc tách nó.
Về dự án này, đầu tiên, mình phải cám ơn đến công ty thiết kế kiến trúc Saigon Green đã đưa vật liệu gáo dừa vào trang trí nội thất. Thứ hai là chủ đầu tư. Sau khi công ty nọ lắp đặt 6 phòng mẫu, nhà đầu từ đã liên hệ với mình để tìm hiểu thêm về vật liệu. Như với bao nhiêu khách hàng khác, mình cũng say sưa ca ngợi, tôn vinh gáo dừa và cuối cùng, sau khi cân nhắc, họ đã chỉ định những đơn vị thi công (công trình khá lớn, nên 1 đợn vị không thể thi công hết toàn bộ) gặp mình để được cung cấp vật liệu cho dự án.
Cảm động biết bao khi nghĩ đến luật nhân quả của đạo Phật. Ngày đêm trăn trở làm sao tôn vinh được cái đẹp, thông qua những sản phẩm ứng dụng cao cấp, để mọi người và biết nhiều hơn đến giá trị thực của gáo dừa. Ngoài khả năng ứng dụng đa dạng, phong phú, gáo dừa còn cho ta hiểu hơn về triết lý nhân sinh thông qua bản thân nó trong quá trình sừng hóa. Từ bột cellulose (xen lu lô) được sừng hóa theo nguyên tắc vết dầu loang, gáo dừa dần trở trên đanh cứng để có đầy đủ tính chất của đá (không bị hủy hoại trong môi trường thiên nhiên và có độ cứng tương đương granite), nhưng lại mang tính ấm áp của gỗ. Trong quá trình sừng hóa, gáo dừa đã tạo nên những hoa văn rất đẹp, có thể ứng dụng vào nghệ thuật tạo hình để tạo nên những tác phẩm sống động lung linh. Cũng như mỗi người chúng ta, ai cũng phải trải qua những nông nỗi của thời non trẻ, để được trưởng thành từ những cống hiến cho cuộc đời này bằng trí tuệ và công sức. Sự cống hiến đó như những hoa văn rất đẹp trong quá trình sừng hóa của gáo dừa...
Chả là có hợp đồng cung cấp vật liệu gáo dừa làm phòng mẫu cho một dự án khá "bự" tại Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngay từ đầu (cách đây gần nửa năm), có 1 công ty sản xuất hàng nội thất đã liên hệ với mình về dự án ni, nhưng thiệt là buồn, vì sau khi tính kích thước module (đơn vị chi tiết sản phẩm), làm mẫu, chia sẻ với họ toàn bộ những giải pháp thực hiện, thì họ lại ký hợp đồng với đơn vị khác. Lý do: bên kia chào giá thấp hơn. Đau vì bị phản bội, nên tới nay, dù đã được gọi điện nhiều lần mình vẫn chưa đến để thanh toán tiền hàng mẫu. Và hôm qua cũng đã đến xem phòng mẫu họ đã làm tại công trình. Màu sắc tái xám, bợt bạt. Đơn vị gia công cung cấp vật liệu đã dùng nguyên liệu non quá nhiều, nên phải dùng đến thuốc tẩy để xử lý sắc độ.
Trước khi dắt mình sang thăm phòng mẫu của công ty nọ, nhà đầu tư đã xem xét rất kỹ vật liệu mình cung cấp, họ đã khen: đẹp, đa sắc và ấm áp (điều này đơn vị thi công cũng đã nói với mình).
Vâng, gáo dừa là thế. Nếu để tự nhiên, dù non hay già, gáo dừa cũng đều thể hiện sự mộc mạc ấm áp, nhưng khi đã bị buộc thoát khỏi bản chất vốn dĩ, gáo dừa ngay tức thì trở nên vô hồn lạnh lẽo. Và đó chính là lý do vì sao mình không bao giờ buộc gáo dừa thoát ra khỏi bản thân nó. Mình yêu gáo dừa bởi sự mộc mạc và ấm áp của sắc độ, bởi sự đanh cứng không bao giờ mục ruỗng, bởi sự mềm yếu mong manh khi còn non tơ. Các bạn thấy đó, dừa non, sau khi bị uống hết nước, người ta vứt đi, nó lập tức trở nên đen đúa, móp méo đến thảm hại. Khi đã chín, dừa vừa cho ta nước ngọt, vừa cho sự béo thơm của nước cốt, vừa cho ta chiếc gáo đã được sừng hóa bền bỉ với thời gian, với nhiều sắc độ lung linh ấm áp, nếu ta hiểu và biết bóc tách nó.
Về dự án này, đầu tiên, mình phải cám ơn đến công ty thiết kế kiến trúc Saigon Green đã đưa vật liệu gáo dừa vào trang trí nội thất. Thứ hai là chủ đầu tư. Sau khi công ty nọ lắp đặt 6 phòng mẫu, nhà đầu từ đã liên hệ với mình để tìm hiểu thêm về vật liệu. Như với bao nhiêu khách hàng khác, mình cũng say sưa ca ngợi, tôn vinh gáo dừa và cuối cùng, sau khi cân nhắc, họ đã chỉ định những đơn vị thi công (công trình khá lớn, nên 1 đợn vị không thể thi công hết toàn bộ) gặp mình để được cung cấp vật liệu cho dự án.
Cảm động biết bao khi nghĩ đến luật nhân quả của đạo Phật. Ngày đêm trăn trở làm sao tôn vinh được cái đẹp, thông qua những sản phẩm ứng dụng cao cấp, để mọi người và biết nhiều hơn đến giá trị thực của gáo dừa. Ngoài khả năng ứng dụng đa dạng, phong phú, gáo dừa còn cho ta hiểu hơn về triết lý nhân sinh thông qua bản thân nó trong quá trình sừng hóa. Từ bột cellulose (xen lu lô) được sừng hóa theo nguyên tắc vết dầu loang, gáo dừa dần trở trên đanh cứng để có đầy đủ tính chất của đá (không bị hủy hoại trong môi trường thiên nhiên và có độ cứng tương đương granite), nhưng lại mang tính ấm áp của gỗ. Trong quá trình sừng hóa, gáo dừa đã tạo nên những hoa văn rất đẹp, có thể ứng dụng vào nghệ thuật tạo hình để tạo nên những tác phẩm sống động lung linh. Cũng như mỗi người chúng ta, ai cũng phải trải qua những nông nỗi của thời non trẻ, để được trưởng thành từ những cống hiến cho cuộc đời này bằng trí tuệ và công sức. Sự cống hiến đó như những hoa văn rất đẹp trong quá trình sừng hóa của gáo dừa...
Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012
TẢN MẠN
Tản mạn |
May 5,
'10 1:07 PM for everyone |
TẢN
MẠN
Chưa bao
giờ cảm lại kéo dài thế này.
Hơn 1 tuần lễ giọng khản đặc cổ họng rát đau bởi những buổi trưa
rong ruổi lên xưởng với cái cổ họng khô quéo.
Lễ, không thể không về quê thăm ông bà nội sắp nhỏ, để rồi khi lên
tới SG, say xe tới chẳng ngồi dậy nổi. Hôm qua lại lăn long lóc với bao công
việc bộn bề.
Chiều qua sắp xếp gặp mấy công ty để trao đổi về vật tư và máy móc
thiết bị cho công việc sắp tới, PT thấy như lửa đang được gắp bỏ tay
mình.
Sáng nay
dậy sớm, cố gắng lên mạng để check mail và chuyển thông tin cho pv báo Quê
hương.
Cũng đã
lâu lăm rồi, PT ít thăm viếng ai mà cũng chẳng viết được bài nào ra
hồn.
Tự nhiên PT muốn viết về hoa, đặc biệt là hoa dại.
Thấy
thương quá, những bông cỏ dại ven đường, chẳng hương, chẳng sắc màu, chẳng ai
quan tâm nhòm ngó. Chúng đã tự mọc với sức sống mãnh liệt không cần bón chăm,
nhằm góp chút phần nhỏ bé của mình giữ cho mặt đất đỡ khô hạn và lặng lẽ nở hoa.
Bị phá bỏ rồi lại tiếp tục đâm chồi rồi lại ra hoa, những bông hoa chẳng làm lay
động lòng người, nhưng lại lay
động PT bởi
sự hồn nhiên mộc mạc của nó. Những bông cỏ này không trong suốt dưới nắng chiều,
nhưng cũng làm ta có chút phiêu diêu…
Phải
chăng PT nhận thấy một phần của mình trong những bông cỏ dại ấy?
Và đó chính là 1 trong cái chất điên của PT. Yêu những gì người đời
lãng quên, thích những gì tầm thường dung dị và luôn bị thương hại bởi sự điên
khùng của chính mình…
___________
___________
A...iii, CHÁU NỘI ĐÂY!
Bài chuyển từ Multifly
A...iii, CHÁU NỘI ĐÂY! | May 19, '11 12:17 PM for everyone |
A...iii cháu nội đây!
A…iiii, cháu nội
nào!
Xin thông báo với toàn thể anh chị em, PTGD đã có cháu nội “chai”.
Tên tục là Cà rốt, tên cúng cơm Mẫn Tuệ. Do cô Quý Khoa, bệnh viện Từ Dũ mổ lấy ra vào lúc 9g sáng ngày 15 tháng 5 năm 2011, cân nặng: 2,8kg.
Bữa nay được 4 ngày, nhưng bệnh viện tính tiền 5 ngày . Coi như lì xì cho bệnh viện 1 ngày
Niềm vui quá “bự” đến không thể nói lên lời. PT chỉ biết khoe “hàng” và tự sướng!
Mong "Pà kon niệm tình" tha thứ!
Xin thông báo với toàn thể anh chị em, PTGD đã có cháu nội “chai”.
Tên tục là Cà rốt, tên cúng cơm Mẫn Tuệ. Do cô Quý Khoa, bệnh viện Từ Dũ mổ lấy ra vào lúc 9g sáng ngày 15 tháng 5 năm 2011, cân nặng: 2,8kg.
Bữa nay được 4 ngày, nhưng bệnh viện tính tiền 5 ngày . Coi như lì xì cho bệnh viện 1 ngày
Niềm vui quá “bự” đến không thể nói lên lời. PT chỉ biết khoe “hàng” và tự sướng!
Mong "Pà kon niệm tình" tha thứ!
Đám
cưới
Đo điện tim cho Cà Rốt trước khi lên phòng
sanh
Chuẩn bị lên phòng sanh
Cà rốt 1 giờ tuổi
Cà rốt 6 giờ tuổi
Cà rốt 8 giờ tuổi bắt đầu bú
mẹ
Cà rốt 12 giờ tuổi
Cà rốt 38 giờ tuổi
NGÔN NGỮ CỦA DỪA
Như bao loại cây trồng
khác, dừa đươc trồng bởi lợi ích thiết thực của nó với cuộc sống của người trồng
nó.
Ngày nay dừa được trồng
với 1 giá trị mới, ấy là tạo cảnh quan cho những dự án phục vụ du lịch. Chưa ai
trồng dừa với mục đích chống bão giông trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày
càng khắc nghiệt hiện nay.
Là loại cây đơn trục với
cấu trúc của lá theo thùy lông chim nên khi đối diện với những trận cuồng phong,
như có phép thuật, những chiếc lá mềm mại như suối tóc người phụ nữ của dừa đã
xoay chuyển và hóa giải để sau khi vượt qua suối tóc ấy, gió trở nên bớt hung
hãn cuồng nộ.
Những buổi trưa hè oi ả,
nếu có được trái dừa giải khát sẽ thú vị biết bao. Bởi nước dừa đã giúp cơ thể
ta thanh nhiệt giảm bớt độc tố trong bài tiết.
Những ngày lễ Tết, trên
bàn thờ nếu có được trái dừa ta cũng cảm thấy yên lòng bởi sự viên mãn, vừa đủ,
tinh khiết và an lành.
Riêng với tôi, dừa còn là
đam mê với nhiều bí ẩn cần được khai phá bởi tính đa dạng trong văn hóa đời sống
của cộng đồng người Việt.
Rất tiếc khi những nhà
nghiên cứu Văn hóa Chăm chưa khai mở được hết những bí ẩn của bộ tộc Dừa trong
đời sống văn hóa tâm linh của người Chiêm Thành xưa.
Trong kinh Thánh dừa là
biểu tượng của sự cống hiến hy sinh không toan tính.
Trong đạo Phật, dừa được
dùng trong hình tượng của sự chấp ngã và chàng Sọ dừa cũng là biểu thị của Phật
tính trong văn học dân gian.
Trong tâm linh, dừa tượng
trưng cho sự thanh bạch trong sáng và đầy đủ.
Trong ẩm thực dừa góp vào
đó như sự viên mãn đủ đầy của vị béo thơm.
Và trong phép ứng xử, dừa
biểu thị cho sự hồn hậu chân tình qua chiếc gáo múc nước bên hiên nhà, qua ngọn
đuốc dừa trong đêm tối lỡ đường.
Chiếc chổi chà dừa biểu
trưng cho sự cần mẫn không quản cực nhọc khó khăn của người phụ
nữ.
Với những kẻ tha hương,
khi nhìn thấy bóng dừa đâu đó, mấy ai thoát khỏi chạnh lòng.
Và điều khắc khoải hơn là
làm thế nào để tôn vinh được cây dừa qua những giá trị văn hóa mà ít cây nào có
được.
Hãy cùng tôi
các bạn nhé, xin chúng ta mỗi người một câu chuyện cho dừa nhằm tôn vinh 1 loại
cây chỉ biết cống hiến mà không có nhu cầu được bón chăm săn sóc nhưng vẫn đều
đặn mỗi tháng cho ta 1 buồng (quầy) quả
ngọt.
______________
______________
Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012
MẸ ƠI!
MẸ
ƠI...!
Saigon 22/8/2010 - 5:00 AM
Bài
được chuyển từ Mulitifly sau khi được biết bên nớ sắp cáo chung
|
Mẹ cùng 2 trai, 3 rể Tết 2010
… “Mỗi mùa xuân sang, mẹ tôi già thêm một tuổi. Mỗi mùa
xuân sang, ngày tôi xa mẹ càng gần” …
Cứ mỗi lần nghe những ca từ này,
con lại tự trách mình nhiều hơn và thấy lỗi với mẹ ngày càng dày hơn.
Lỗi của con là ít về thăm mẹ, bởi
nhiều sự, nhưng cái sự lớn nhất ấy chính là sự lười biếng. Bởi sau 1 ngày mải mê
với công việc, con lại tất tả về với tổ ấm của mình để được ngả lưng thư giãn.
Áp lực công việc khiến con ít dành thời gian cho mẹ. Những hôm nào làm việc ở
nhà thì thậm chí con cũng quên cả ăn cơm. Mải miết trên mạng tìm tư liệu để đọc,
để viết, để gom nhặt kiến thức, hoặc đôi khi thăm thú bạn bè đến khi mệt quá thì
trời cũng đã khuya rồi.
Cứ hẹn lần, hẹn lửa, đôi khi cả 10
ngày con không về thăm mẹ.
Chiều nay chủ nhật, trời mưa,
nhưng con sẽ về thăm mẹ.
Mẹ lại sẽ hỏi khi nghe thấy tiếng
con:
-
Đứa nào đó? Thanh hả con?
-
Dạ.
Và con lại xà vào hôn lên đôi mắt
chỉ còn phân biết sáng tối của mẹ.
Đã hơn 20 năm rồi, sau hơn 10 lần
giải phẫu, ghép giác mạc, lại giải phẫu, nhưng rồi y học phải chịu thua vì không
thể nào cứu nổi.
Con còn nhớ lần mẹ mổ mắt đầu tiên
vào năm 1968. Sau những ngày Tết đau đớn lăn lộn, ba cùng con đưa mẹ vào phòng
mạch của Thạc sỹ Cát tại đường Bà Huyện Thanh Quan để khám. Con ở lại để chuẩn
bị cho ca mổ của mẹ. Ba về nhà chuẩn bị mọi thứ.
Ngày ấy, một cô bé 12 tuổi vẫn còn
mải chơi nào biết chi đến tai họa sắp giáng xuống gia đình mình. Sáng hôm sau,
rất hồn nhiên, con đưa mẹ vào phòng mổ và ra ngoài ngồi chờ. Chờ mãi, không biết
bao lâu nữa, con thấy số ruột, thế là lững thững ra ngoài phố tìm nhặt me rụng.
Có trái me nào đâu vào những ngày sau Tết. Lầm lũi 1 lúc, con quay về phòng mổ.
Lại ngồi chờ, ngồi chờ… Và rồi y tá cũng đã gọi con. Cùng y tá đưa mẹ về phòng,
con nào biết việc gì đã xảy ra. 3 hôm sau mắt mẹ cắt băng. Chỉ thấy mẹ thầm thì
với ba con điều gì đó, làm ba lặng người đi. Sau đó con được biết, lần mổ mắt ấy
của mẹ bị thất bại, và có thể mẹ sẽ bị mù vĩnh viễn.
Mắt mẹ đã ổn, nhưng mẹ phải đeo
thêm kính…
Rồi con đi bộ đội.
Sáu năm, sau ngày giải phóng, con
từ miền Bắc trở về, thị lực của mẹ giảm đáng kể sau những đòn tra tấn của cảnh
sát và khóc thương các em trong những ngày không có mẹ cha.
Năm 1972, ở tù ra, mắt mẹ đã hoàn
toàn không thấy gì nữa. Bà con chòm xóm và khách hàng nghe tin mẹ về đã lần lượt
đến thăm và thanh toán nợ nần để mẹ có tiền đi mổ mắt. Phải qua 4 lần phẫu thuật
mắt mẹ mới bắt đầu trông thấy. Và mẹ lại tiếp tục chích thuốc, chữa bệnh cho bà
con chòm xóm nhưng mắt mẹ luôn phải đeo kính và bên mẹ luôn phải có loại thuốc
đặc trị dành cho mắt nhỏ mỗi ngày. Đầu mẹ luôn đau nhức bởi nhãn áp luôn
tăng.
Năm 1986, ba mẹ cùng nhau ra Bắc
để đăng ký ghép giác mạc cho mẹ. Sau gần 4 tháng chờ đợi và may mắn thay, mẹ trở
về với đôi mắt đã có được ánh sáng. Nhưng rồi cứ ngày 1 tối dần đi, mẹ lại tiếp
tục thêm những lần mổ mắt bởi những chuyên gia về mắt hàng đầu thế giới đến Việt
Nam, cho đến lần cuối cùng là năm 1990. Mẹ lại tiếp tục chờ ca phẫu thuật mới từ
1 đoàn bác sỹ từ Mỹ. Họ khám mắt cho mẹ xong và hết sức ngạc nhiên vì sao mắt mẹ
với từng ấy năm mà vẫn còn trong suốt, chỉ tiếc, gai thị đã teo mất rồi. Họ đâu
biết mẹ đã liên tục trải qua hơn chục cuộc phẫu thuật hòng lấy lại ánh sáng cho
đôi mắt với đau đớn hằng ngày do nhãn áp liên tục tăng.
Họ từ chối mổ, bởi không thể giúp
gì được cho mẹ.
Và từa đó tới nay, mắt mẹ mờ dần
cho đến nay, chỉ còn sáng tối mà thôi.
Ngày ba con mất, mẹ đã cố nuốt
nước mắt vào trong để các con yên tâm lo cho ba. Mọi việc xong xuôi, mẹ gọi các
con lại bảo: Ba đã mất rồi, nay chỉ còn có mẹ, mẹ phải cố sống để các con còn có
chỗ đi về. Lời mẹ nhẹ nhàng đơn giản chỉ có thế, nhưng chúng con hiểu, từ trong
tận sâu thẳm, với mẹ, ấy chính là mệnh lệnh của trái tim. Bởi tuổi kề 80 với căn
bệnh tim mạch và tiểu đường, mẹ phải ngày đêm chống chọi.
Mẹ đã hằng ngày tập thể dục, đi
lại hàng trăm vòng trong nhà, tập Dịch chân kinh để giảm đau nhức và tăng cường
sức khỏe để chống chọi với bệnh tật. Mẹ không bỏ 1 cữ thuốc nào, mẹ cố ăn kiêng,
mẹ không bỏ 1 buối tập thể dục nào và cũng không hề trách cứ khi các con muộn về
thăm.
Bạn của mẹ nhiều bác bị tiểu đường
sau mẹ đã lần lượt ra đi, bởi họ không bền bỉ như mẹ, bởi họ không sợ rằng: Nếu
mẹ mất đi, các con sẽ không còn chỗ đi về.
Mẹ ơi, chiều nay con
sẽ về thăm mẹ. Nhất định là thế!
Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012
CHO CON
Bận rộn với công việc và nhìn con cháu đùa vui là hạnh phúc.
Vậy mà đâu phải lúc nào cũng có công việc để mình bận rộn, đâu phải các con lúc nào cũng đùa vui.
Mệt mỏi nhất là công việc bận rộn, hạnh phúc của con lại lung lay.
Con trai yêu của mẹ,
Để vượt qua được sức ì của bản thân thật là khó. Giờ đây hơn lúc nào hết, mẹ mong con yêu của mẹ hiểu được sự lo lắng của mẹ dành cho con. Con không còn bé thơ để mẹ sửa cho từng lời nói. Con không còn bé thơ để mẹ hôn lên vết đau khi con ngã té, nhưng hãy để mẹ hôn lên sự nông nỗi, để con bình tâm lại và hiểu mình cần phải làm gì để có thể ngẩng cao đầu trong cuộc sống.
Mẹ yêu và luôn lo lắng cho con.
Vậy mà đâu phải lúc nào cũng có công việc để mình bận rộn, đâu phải các con lúc nào cũng đùa vui.
Mệt mỏi nhất là công việc bận rộn, hạnh phúc của con lại lung lay.
Con trai yêu của mẹ,
Để vượt qua được sức ì của bản thân thật là khó. Giờ đây hơn lúc nào hết, mẹ mong con yêu của mẹ hiểu được sự lo lắng của mẹ dành cho con. Con không còn bé thơ để mẹ sửa cho từng lời nói. Con không còn bé thơ để mẹ hôn lên vết đau khi con ngã té, nhưng hãy để mẹ hôn lên sự nông nỗi, để con bình tâm lại và hiểu mình cần phải làm gì để có thể ngẩng cao đầu trong cuộc sống.
Mẹ yêu và luôn lo lắng cho con.
Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2012
DANH THẦN QUẢNG BÌNH (cuối cùng)
Tại Hà Nội ngày nay, ở
chùa Liên Phái, trong nhà Tổ bên cạnh các tượng Phật còn có tượng Nguyễn Đăng
Giai, một danh thần triều Nguyễn quê ở làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng
Bình. Xuất thân từ gia đình quí tộc, Ông là con trai Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn
Đăng Tuân, là bố của tiến sỹ Nguyễn Đăng Hoành. Năm 1825, dưới thời Minh Mạng,
năm Minh Mạng thứ nhất, Nguyễn Đăng Giai đỗ cử nhân, rồi làm quan, từng giữ chức
Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội – Bắc Ninh), Thượng thư bộ Hình, Kinh lược sứ Bắc Kỳ…
Ông làm quan dưới 3 đời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, được vua Thiệu Trị
và vua Tự Đức hết lời khen ngợi vì ở chức vụ nào, ông cũng hoàn thành sứ mạng
một cách vẻ vang.
Dưới triều Minh Mạng, Nguyễn Đăng
Giai được bổ vào làm ở Hàn lâm viện, rồi thăng Lang trung bộ Hộ, làm Tham hiệp
trấn Nam Định, làm Hộ lý quan phòng cửa Tuần Phủ, Thanh Hóa. Với tài điều binh
khiển tướng, nhiều mưu lược và vì an nguy xã hết lòng tắc, Đăng Giai được điều
động đi khắp nơi từ Nam ra Bắc để bình định phiến loạn và chăm sóc đời sống dân
lành.
Dưới triều Thiệu Trị, năm đầu
Thiệu Trị (1841), Nguyễn Đăng Giai làm Tổng đốc Ninh Thái (tức Bắc Ninh
và Thái Nguyên). Với tài thao lược, 3 năm sau ông làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên
(Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), rồi làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh
Bình).
Dưới triều Tự Đức, năm Tự Đức thứ
nhất (1848), Nguyễn Đăng Giai làm thự Hiệp biện đại học sĩ, sau đó thì làm
Thượng thư bộ Hình kiêm sung Quốc sử quán Tổng tài. Ông dâng sớ điều trần 10
khoản về việc hình, 13 khoản về các việc đúc tiền, tuyển lính, khẩn hoang, vỗ
yên dân...Tất cả đều được nhà vua nghe theo.
Khi ấy, vì mới lên ngôi, nhà vua
muốn sai sứ sang nhà Thanh cầu phong. Nguyễn Đăng Giai liền dâng sớ can ngăn,
đồng thời đề xuất ý kiến là nên mời sứ thần nhà Thanh sang làm lễ bang giao tại
kinh đô Huế, vừa giữ được lễ, vừa ít tốn kém. Sách Đại Nam chính biên liệt
truyện chép:
...Vua cho lời nói (của ông) là
phải, sai phát quốc thư đệ đạt đi. Đến khi sứ nước Thanh là Lao Sùng Quang đến
Kinh, làm lễ bang giao, tình ý thỏa hợp, Vua cho Đăng Giai (là người) đầu tiên
kiến nghị ra, giữ được quốc thể lắm, thưởng (cho ông) một đồng kim tiền có chữ
“Long vân khế hội” và ba tấm nhiễu màu.
Tuy được nhà vua khen và tin cậy,
nhưng Nguyễn Đăng Giai không được lòng các quan đồng triều. Cho nên khi khuyết
chức Tổng đốc Nghệ An, nhiều người đã đồng đề cử ông đi, buộc ông phải dâng sớ
xin từ chối. Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), vùng Hữu Kỳ (gồm Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh) mất mùa, nhà vua bèn chọn Nguyễn Đăng Giai làm Hữu Kỳ Kinh lược đại sứ
lĩnh chức Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), kiêm coi đạo Thanh Hóa. Đến
nơi, ông gửi sớ về xin vua cho sắp đặt lại nhiều việc, trong đó có việc cho bãi
lệnh cấm bán gạo, hoãn thu thuế, tha cho các khoản thiếu, mở các cửa quan và
đình đặt đồn để cho dân tự do đi lại giao thương...Lời tâu của ông lại được vua
khen, và sai đình thần chọn lấy để thi hành.
Mùa đông năm ấy, ông lại tâu xin
truy phong các bề tôi tiết nghĩa ở cuối đời Hậu Lê, lại được vua nghe theo. Xét
công, nhà vua thưởng cho ông một cái bài đeo bằng ngọc tốt chạm khắc hoa mai,
một đồng tiền hạng lớn có chữ "Vạn thế vĩnh lại".
Năm Tân Hợi (1851), tàn dư của các
cuộc nổi dậy chống Thanh nhưng đã biến chất, từ Quảng Tây (Trung Quốc) xiêu dạt
tới cướp phá đất Cao Bằng. Nhà vua liền đổi Nguyễn Đăng Giai đi làm Tổng đốc Hà
Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) kiêm sung Kinh lược các tỉnh là: Ninh Thái (Bắc Ninh
và Thái Nguyên) và Lạng Bằng (Lạng Sơn và Cao Bằng).
Sau khi đi xem xét các nơi, ông
dâng sớ lên vua trình bày 5 điều về sự trù tính công việc ở biên giới. Được nhà
vua chấp thuận, ông liền lệnh cho các tỉnh chọn lính (tuyển thổ binh, tuyển cả
phạm nhân tội lưu), bãi chức lưu quan, đặt lại thổ quan...để cho cương giới được
bền vững. Tiếp theo, ông gửi thư cho Tuần phủ Quảng Tây để nhờ yễm trợ, rồi đốc
quân đến Lạng Sơn, đánh bắt được ba viên chỉ huy của đội quân xiêu dạt trên là
Trần Trường, Hoàng Ngọc Quang, Đặc Kim Long. Hoảng sợ, Lý Văn Xương, thủ lĩnh
quân Tam Đường (Lai Châu) bèn cử người đến xin hàng.
Năm 1854, khi là Kinh lược sứ Bắc
Kỳ, giặc Tống sang quấy nhiễu, cướp bóc ở Cao Bằng, ông chỉ huy quân sĩ đánh
dẹp. Đang ở trận địa, ông bị bệnh phải về Hà Nội điều trị, rồi mất vào mùa thu
năm ấy.Nguyễn Đăng Giai lâm bệnh nặng rồi chết tại Hà Nội. Thương tiếc, vua Tự
Đức sai truy tặng ông hàm Thiếu bảo, ban tên thụy là Văn Ý. Năm Mậu Ngọ (1858),
nhà vua cho thờ ông trong đền Hiền Lương tại Huế.
Không như thần thoại Hy Lạp, không
như các dạng tôn giáo, tín ngưỡng khác, danh thần Việt Nam là người thực, là
những nhân vật lịch sử có công lớn với dân tộc trong chiến đấu bảo vệ và mở rộng
biên cương bờ cõi, chăm lo đời sống nhân dân, được sử sách lưu danh, được nhân
dân thờ cúng ghi ơn. Truyền thống uống nước nhớ nguồn được lưu truyền từ đời này
sang đời khác cũng là một dạng tín ngưỡng dân gian, được gọi là tục thờ cúng ông
bà không phải quốc gia nào cũng có. Đây là một nét văn hóa, một tập quán đẹp,
rất đáng trân trọng, cần được bảo tồn và phát huy. Và đây cũng là một dạng thức
của tâm linh, cũng rất dễ bị thần thánh hóa dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan
của những kẻ trục lợi từ thánh thần bằng những chiêu trò lừa mị.
Với bề dày lịch sử, chống giặc
ngoại xâm, mở mang bờ cõi, Quảng Bình là vùng đất có nhiều danh thần nhất Việt
Nam. Đây chính là niềm tự hào của người dân Quảng Bình. Dưới góc nhìn về lịch
sử, văn hóa, Danh thần là khối tài sản mà Quảng Bình được sở hữu mà không phải ở
đâu cũng có.
Khí hậu khắc nghiệt
tạo nên những hoang mạc bỏng cát đầy nắng gió; núi non hiểm trở, với nhiều hang
động nổi tiếng thế giới, cùng nhiều tộc người thiểu số vẫn còn giữ được nét
hoang sơ trong đời sống cộng đồng cùng những tập tục mang bản sắc văn hóa huyền
bí của núi rừng chính là lợi thế phát triển du lịch của Quảng Bình.
Những
điều trên đã tạo nên sự khác biệt và sẽ tạo nên những sản phẩm độc đáo cho ngành
Công nghiệp không khói Quảng Bình. Có được tầm nhìn chiến lược và định hướng
phát triển tốt, Quảng Bình sẽ là nơi cực kỳ hấp dẫn với khách du
lịch./.
Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012
DANH THẦN QUẢNG BÌNH (TT)
Cũng huyện Lệ Thủy, còn có
Khâm sai tuần hành ngũ phủ Thỏa
Lộc hầu Đặng Đại Độ. Ông là vị
danh thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, quê ở làng Cư Triền - huyện Đăng
Phong - phủ Quảng Bình, nay là làng Quảng Cư - huyện Lệ Thủy - tỉnh Quảng
Bình.
Đặng Đại Độ nổi tiếng thông minh
từ thuở nhỏ. Là người văn võ song toàn, Ông lại rất mực khiêm nhường, chăm chỉ
học hành nên rất uyên thâm. Ông đỗ khoá thi Hương Tiến - học vị cao nhất xứ Đàng
Trong bấy giờ - lúc còn rất trẻ, được bổ vào Văn Chức viện. Năm 1761, người Man
(Chăm) dựa vào núi Thạch Bích cheo leo đầy lam sơn chướng khí để để chống lại
triều đình. Đây cũng là đội quân có tổ chức, thiện chiến với lối đánh du kích
thoắt, ẩn thoắt hiện làm quan quân vô cùng khiếp sợ. Chúa phong cho Ký lục dinh
Bình Khang Đặng Đại Độ (được bổ quan năm 1748) làm tướng cầm quân đánh dẹp. Sau
khi xem xét cẩn thận, nhận thấy họ chống lại triều đình do sự hà khắc, tham ô,
nhũng nhiễu của quan lại địa phương nên ông lệnh cho quân sĩ không được lạm sát
rồi bất ngờ đem quân chiếm lấy sào huyệt của họ. Quân Man choáng váng, khắp nơi
bỏ chạy tan tác. Ông đóng quân ở lại rồi tiến hành chấn chỉnh quan lại địa
phương và phủ dụ người Man. Chẳng bao lâu, họ kéo nhau ra hàng. Chúa khen ngợi,
bổ làm Ký lục dinh Quảng Nam. Thời gian sau, lại bổ làm Ký lục dinh Trấn Biên -
một trung tâm văn hoá, giáo dục, thương mại của chúa Nguyễn ở phía Nam. Giống
như Hoàng Hối Khanh, Đặng Đại Độ làm quan nổi tiếng công minh, chính trực. Ở
những nơi ông làm việc, quan tham và cường hào ác bá không chốn dung thân. Nhờ
có tài điều tra nên ông tìm ra thủ phạm của nhiều vụ án phức tạp, đưa ra xét xử
nghiêm minh theo phép nước, hợp lòng dân. Nhân dân tôn kính, ngợi ca:
Danh chính trực rạng ngời quan Ký lục
Đuốc công minh sáng rọi chốn quan đường
(Dũng
khí Đặng Đại Độ, Đinh Bằng Phi)
Ông là tấm gương sáng ngời về đức
tính thanh liêm, luôn giữ cho nhân cách được vẹn toàn, không lợi dụng địa vị để
chiếm công vi tư. Nhiều câu chuyện về ông được nhân dân ngưỡng mộ lưu truyền và
đi vào sử sách. Nổi tiếng nhất là sử trạng được . Quốc sử quán triều Nguyễn Đại
Nam nhất thống chí ngợi khen là người “nổi tiếng về học hạnh”, Quốc sử quán
triều Nguyễn Đại Nam liệt truyện ghi lại, nội dung như sau:
Vào lúc Đặng Đại Độ làm Ký lục
dinh Trấn Biên, có hai viên quan cai đội hầu cận chúa từ Phú Xuân đến Biên Hòa
tìm ca nhi để đưa về kinh đô biểu diễn cho chúa xem. Chúng cậy thế là người tâm
phúc của chúa nên hống hách, làm nhiều điều trái phép. Đặng Đại Độ tiến hành
điều tra rồi thăng đường xử án. Với chứng cứ rành rành, chúng phải cúi đầu nhận
tội. Yêu dân phải lấy việc trừ cái ác làm đầu nên ông đã ra lệnh giết rồi “bêu
lũ tanh hôi hại dân giữa chợ” (Văn bia Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm, Huỳnh Ngọc
Trảng). Biết mình đã xử trọng án vượt quyền thiên tử nên ông tự mặc áo đơn, đeo
gông ngắn, đi bộ về kinh xin nhận tội. Người con đi theo, thấy cha dãi nắng dầm
sương muốn thuê võng cáng nên nói:
- Chừng nào về đến kinh đô sẽ hay,
còn bây giờ cha nên lên võng mà đi.
Ông nói:
- Lại có hạng tội nhân mong được
nhàn hạ ư ?
Đi ròng rã hơn một tháng trời mới
về đến kinh đô Phú Xuân với thân phận tội nhân. Ông đến Bộ Hình trình bày sự
việc rồi xin vào ngục đợi tội. Bộ Hình đem việc tâu lên, chúa xem xét xong cho
mời vào ra mắt. Thấy mặc áo tội nhân, chúa cấp cho triều phục. Ông xin chịu tội,
chúa ủy lạo, dụ rằng:
- Khanh có tội gì, mà tự lao khổ
thế ? Trước kia ta sai đi chọn một vài con hát để tiêu khiển lúc rỗi, không ngờ
lũ tiểu nhân đi ra, cậy thế ức hiếp người ! Khanh giết đi là phải. Có tội gì
đâu. Vậy bỏ qua việc ấy đi.
Lập tức, chúa phong Đặng Đại Độ
làm Khâm sai tuần hành ngũ phủ - Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Bình
Thuận - kiêm Tuần phủ Gia Định, được quyền “bãi hay thăng chức các quan lại” ở
sáu phủ này. Lúc này, Đàng Trong kéo dài từ Quảng Bình đến Cà Mau, chia làm 12
dinh và một trấn. Mỗi dinh quản lý một phủ (riêng dinh Quảng Nam quản ba phủ).
Điều đó cho ta thấy niềm tin của chúa Nguyễn đối với ông lớn biết chừng
nào.
Uy danh lừng lẫy nhưng Đặng Đại Độ
vẫn rất mực khiêm nhường, hết lòng tận tụy vì dân, vì nước, đến nỗi gục lên bàn
làm việc mà chết. Hai con đưa ông về quê nhà, dọc đường quan lại và nhân dân bày
hương án đón, bái biệt vị quan đáng kính. Chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếc thương,
ban thụy Trung Cần và cho dựng bia ca ngợi công đức (lăng mộ ông đã được di dời
về khu lăng mộ cổ của dòng họ).
Xưa nay vẫn có không ít những vị quan dũng cảm, dám vì
công lý mà to gan đụng độ với các đấng quan trên, nhưng nghiêm với chính mình và
tự xử chính mình như Đặng Đại Độ, quả thật là rất hiếm. Cuộc đời của ông đã vĩnh
viễn khép lại từ lâu, nhưng khí khái của ông thì vĩnh tồn với đất Biên Hòa - Gia
Định, với tất cả những ai khao khát quốc thái dân an”.
(Vẫn còn ạ )
Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012
DANH THẦN QUẢNG BÌNH (TT)
Vị thứ
ba, tuy không là thành hoàng, nhưng được coi là ông tổ vùng Lý - Nhân – Nam, đó
là Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần - Hồ Cưỡng. Hồ Cưỡng sinh vào
khoảng niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369), đời Trần Dụ Tông. Ông đã từng làm Giám
Quân Tả Thánh Dực và Đại Trị châu lộ Diễn Châu. Cuối thế kỷ XIV, Hồ Cưỡng được
Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) lúc bấy giờ với tước Đại Vương phong làm Chánh đội trưởng
chỉ huy một đạo quân trên 2.400 quân vào đánh Chiêm Thành. Ông là vị tướng tài,
đánh giặc nhiều nơi, thắng nhiều trận giòn giã ở cửa sông Nhật Lệ, Bàu Tró, Phú
Hội... Nơi đây, Ông đã chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất đai và đã trở thành ông
tổ họ Hồ khai canh vùng Lý - Nhân – Nam. Do lấy thêm một người vợ lẻ và sinh
con, nên dòng họ Hồ ở Nhân Trạch từ đó được sinh sôi đông đúc. Ông đã được vua
Khải Định phong sắc là “Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần” (Khải Định năm thứ 9 ngày
25 tháng 7, tức năm 1924). Sau khi sắc phong nhà Vua cho xây thành, cổng, lăng
mộ (lăng mộ của ông ở đầu làng Nhân Trạch cách huyện lộ Bố Trạch chừng 3 km) và
đề tặng bốn câu thơ trước bình phong lăng mộ ở Quảng Bình:
’’Ngũ giới nam dương
quý khí ngọc cửa thần
Thiên văn uy lệ quý
hiền dâng chi mục
Huyết hoàng quy thủy
quý thiết ví lâm vi
Nhật nguyệt như oai
quý nhân trường thủy địa’’
Trong miếu thờ ở khuôn viên mộ họ
Hồ còn có câu: “Thần Hiền khai khẩn Lý - Nhân – Nam”.
Danh thần Đào Duy Từ (1572 -
1634), được chúa Nguyễn truy phong công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu.
Do có công lớn giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong. Ông là nhà quân
sự và nhà văn hoá đại tài thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Năm Canh Ngọ 1630, ông
chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng
là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa
sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây là chiến lũy quan
trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của
quân Trịnh.
Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, quê ở
làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là Vân Trai, Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Là người
tinh thông sử sách, có tài văn võ nhưng không được đi thi, do xuất thân từ con
nhà ca kỹ. Ông uất ức rời quê hương vào Nam lập nghiệp. Ban đầu ông phải đi ở
chăn trâu cho nhà chủ giàu có ở Bình Định. Ông chủ là người ham mê văn chương,
thấy Đào Duy Từ có tài, nên đã tiến cử ông cho quan Khám lý Trần
Đức Hòa. Mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho Ông, đồng thời
tiến cử Ông cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ, trò chuyện, thấy
được tài đức của Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho Ông làm Nha uý Nội tán. Được
Chúa Nguyễn tin tưởng, trọng dụng, Ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về
tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa.
Sinh thời, Đào Duy Từ sáng tác
nhiều tác phẩm văn, thơ, và nhiều ca khúc rất giá trị; biên đạo một số điệu múa
được lưu truyền rộng rãi. Ông là người Việt đầu tiên làm thơ lục bát và là người
có công phát triển nghề hát bội ở Đàng Trong, là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu.
Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ" và "Ngọc
Long cương vãn" (văn học). Năm 1634, ông bị ốm nặng và mất. Mặc dù không phải là
người Quảng Bình, nhưng là người có công rất lớn nơi vùng đất này, nên được nhân
dân yêu quý, tôn trọng và được xếp vào danh nhân tiêu biểu của Quảng
Bình
Cùng thời với Đào Duy Từ còn có
Phật Bồ Tát Nguyễn Hữu Dật (1604–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn ở Đàng
Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Cha ông là quan tham chiến Triều Văn Hầu
Nguyễn Triều Văn, vì bất mãn với chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, nên theo phò chúa
Nguyễn vào Đàng trong. Bước dừng chân đầu tiên của dòng Nguyễn Hữu vào năm 1609
do Triều Văn Hầu định hướng là đất Quảng Bình. Khi ấy người con trai thứ năm của
Triều Văn Hầu là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật mới được 6 tuổi. Ông là người có
công phò tá chúa Nguyễn, đánh thắng nhiều cuộc nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững
lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Nguyễn Hữu Dật quê ở Gia
Miêu, huyện Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hoá. Thuở nhỏ Nguyễn Hữu Dật thông minh,
trí nhớ hơn người. Lớn lên Ông giỏi văn chương, lại thích võ nghệ. Cha ông thấy
được năng khiếu của con muốn được phát huy, nên mời thầy về dạy học. Được võ sư
tận tâm truyền thụ các binh thư, binh pháp cũng như võ nghệ, 16 tuổi Ông đã lừng
danh văn chương võ lược nên được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1635) bổ nhiệm làm chức quan văn trong triều, sau trở thành vị
tướng xuất sắc có nhiều mưu lược. Do có tài, được bổ nhiệm giữ chức vụ sớm nên
ông nảy sinh tính tự cao, Chúa Sãi cho bãi nhiệm rời Triều. Nhưng sau xét thấy
tài năng của ông cần được sử dụng, nên Chúa vời lại Triều và cho giữ chức vụ cũ.
Sau đó, ông được thăng chức Tham cơ vụ, được tham dự các cuộc họp bàn việc cơ
mật và đã đóng góp nhiều ý kiến có lợi cho việc triều chính. Khi được chuyển làm
Giám chiến, Ông nhiều lần chỉ huy nghĩa quân liên tiếp đánh quân Trịnh và dành
được nhiều thắng lợi. Năm Mậu Tý (1648) nhận chức Cai cơ lãnh ký lục dinh Bố
Chính, sau thăng Đốc chiến, tước Chiêu Vũ hầu, cùng Nguyễn Hữu Tiến đem quân ra
Bắc Hà, chiếm được đất hai huyện thuộc Nghệ An; rồi đem quân về vẫn trấn đạo Lưu
Đồn (nay là Dinh Mười, xã Gia Ninh).
Nguyễn Hữu Dật đã dùng thư giả để
ly gián, làm cho nội tình quân Trịnh không tin tưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng
chính từ đây đã dẫn đến việc Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần nghi Ông có ý đồ, mưu
hàng Chúa Trịnh và bị tống giam vào ngục. Trong ngục ông đã sáng tác tập Hoa vân
cảo thị lồng tâm trạng của mình vào cốt truyện. Chúa Hiền đọc được hiểu tấm lòng
trung thành của ông, bèn cho ra khỏi ngục, phục hồi chức tước như cũ.
Đào Duy Từ biết Nguyễn Hữu Dật là
người tài giỏi, có con mắt chiến lược của nhà quân sự nên đã cùng Ông bàn luận
và được Chúa Sãi chuẩn y, hạ lệnh cho quân dân phủ Quảng Bình đắp lũy đắp Lũy
Thày, một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn, vốn có lực lượng mỏng hơn, cầm
cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1635, Đào Duy Từ mất,
Nguyễn Hữu Dật tiếp tục trùng tu Lũy Thày và Lũy Trường Dục. Ông tiếp tục xây
dựng thêm Lũy Động Cát (tức Lũy Trường Sa) để củng cố tuyến phòng thủ, lũy An
Náu năm 1661 . Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật văn võ toàn tài, lúc làm tướng có
nhiều công lớn, đánh đâu được đấy, ví như Khổng Minh nhà Thục Hán và Lưu Bá Ôn
nhà Minh vậy.
Mùa xuân, năm Tân Dậu (1681),
Nguyễn Hữu Dật mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy
tặng ông là Chiêu quận công, thuỵ là Cần Tiết. Nguyễn Hữu Dật là người có công
lớn đối với Quảng Bình, được nhân dân Quảng Bình tin yêu, cảm động đức độ của
ông, gọi ông là Phật Bồ Tát, lập đền thờ ở Xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc),
gọi là đền Tĩnh Quốc công.
(vẫn
còn... )
Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012
DANH THẦN QUẢNG BÌNH
Và đây là "món" thứ 2
KT đem đến hội thảo. Cũng chỉ mang
tính lược kê, nhưng ở 1 góc nhìn khác về DANH NHÂN QUẢNG BÌNH, đó là góc nhìn tâm linh.
Mời các bạn thưởng thức tiếp!
DANH THẦN QUẢNG BÌNH
Không chỉ là nơi giao thoa của
các nền văn hóa cổ đại Hòa Bình, Đông Sơn và Sa Huỳnh, Quảng Bình còn là nơi có
nhiều danh nhân võ tướng được phong thần nhất Việt Nam. Không nói đến những di
chỉ khảo cổ về các nền văn hóa được khai quật, mà căn cứ vào những điều sử sách
đã ghi, từ ngàn đời nay Quảng Bình luôn là mảnh đất thuộc tuyến đầu tổ quốc, nơi
diễn ra nhiều trận chiến ác liệt để giữ yên bờ cõi. Vì thế danh nhân Quảng Bình
phần lớn đều xuất thân từ võ tướng, họ có công gìn giữ và mở mang bờ cõi. Với
những công lao to lớn của mình, nhiều người trong họ được phong thần có những vị
đã trở thành thần thành hoàng ở những nơi họ lập ấp chiêu dân. Ngoài ra, tên
tuổi của họ cũng đã gắn liền với những di tích lịch sử văn hóa của Quảng Bình
cũng như cả nước.
Vị thành hoàng của cả một vùng
rộng lớn của huyện Lệ Thủy ngày nay là Quận công Hoàng Hối Khanh (1362 - 1407).
Nguyên quán của ông ở xã Bái Trại, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá, đỗ khoa thi
Thái học sinh (Tiến sĩ) năm Giáp Tý, niên hiệu Xương Phù 8 (1384) đời vua Trần
Phế Đế.
Hoàng Hối Khanh là một danh tướng,
một con người tài hoa nhân đức và hết sức đặc biệt của lịch sử dân tộc những năm
cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Từ khi ra làm quan (1384) đến khi tuẫn tiết
(1407), trên 23 năm làm quan dưới hai vương triều, trong đó có 16 năm dưới triều
Trần Mạt và 7 năm ở vương triều Nhà Hồ, ông đã có những đóng góp rất lớn trên
các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế. Điểm nổi bật trong cuộc
đời làm quan của Hoàng Hối Khanh là luôn thanh liêm, chính trực, yêu thương nhân
dân và được nhân dân vô cùng yêu mến. Ông thường xuyên đi xuống địa phương kiểm
tra tình hình, răn dạy quan lại phải lấy lòng dân làm gốc, thông cảm với đời
sống đói khổ của nhân dân, nghiêm trị bọn quan lại sách nhiễu dân lành, phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Ông dùng chính sách khuyến nông,
khuyến khích mọi ngươi cùng làm cùng hưởng, tích trữ quân lương để đề phòng khi
có chiến tranh. Ông thường xuyên chăm lo tập luyện quân lính trong toàn dân, để
khi có chiến tranh tất cả sẽ là chiến sỹ. Bằng những chính sách này ông đã biến
tất cả mọi người thành người lính trung thành, sẵn sàng bảo vệ tổ
quốc.
Hoàng Hối Khanh đã tham gia giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong triều, nên hiểu rất rõ điểm mạnh điểm yếu của bộ
máy Nhà nước. Ông cũng rất am hiểu tình hình xã hội, đời sống nhân dân suốt từ
Bắc vào Nam, do từng làm việc ở rất nhiều địa phương trong cả nước. Khi làm An
Phủ sứ Lộ Tam Đái, Hoàng Hối Khanh cho mở xưởng rèn đúc vũ khí, tuyển các thợ
giỏi vào các công xưởng quân sự, chỉ huy đắp thành Đa Bang và đóng cọc ở sông
Bạch Hạc để án ngữ quân Minh từ Tuyên Quang tiến sang. Thành Đa Bang hợp với hệ
thống công trình thành luỹ dài gần 400km, kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông
Đà, sông Hồng, sông Luộc đến sông Thái Bình làm thành hệ thống phòng thủ quy mô
lớn. Khi xây dựng thành Đa Bang, Hoàng Hối Khanh đã kế thừa những kinh nghiệm
xây dựng các hệ thống phòng thủ của tổ tiên. Có thể nói đối với lịch sử quân sự,
đây là một công trình phòng thủ có quy mô lớn nhất, trên một bình diện rộng, đồ
sộ gấp nhiều lần phòng tuyến Như Nguyệt thời Lý chống Tống. Với công trình phòng
thủ này ông đã lưu tên mình vào danh sách những nhà quân sự tài ba của dân tộc.
Ngoài tài năng chính trị, quân sự, ngoại giao, Hoàng Hối Khanh còn là nhà cải
cách kinh tế táo bạo như bỏ phép đánh thuế ruộng đất và dân đinh, tăng cường dự
trữ ngân khố quốc gia… Những chính sách tiến bộ này đã cứu vãn được một cuộc suy
thoái tài chính trầm trọng do nhà Trần để lại.
Vị thành hoàng thứ hai làTrần Bang
Cẩn (1314-1357). Trần Bang Cẩn là Thượng thư Đại Hành Khiển thuộc dòng tộc nhà
Trần. Dưới thời vua Trần Minh Tông là người nhiều lần đánh thắng và dẹp yên quân
Chiêm Thành, có công trấn giữ mảnh đất phía Nam của Đại Việt, chiêu dân lập ấp,
xây dựng vùng đất mới, hướng dẫn khai phá đất đai, lập ra hai xứ Đông, Đoài của
xã Quảng Lộc và một phần xã Quảng Hòa bây giờ. Với những đóng góp cực kỳ to lớn,
được đánh giá là công thần đối với đất nước quê hương, phúc thần với nhân dân,
Ông được phong các tước vị như: Bản thổ bình Lồi (dẹp giặc Chiêm Thành). Gia
vương Trần Hành Khiển tăng Vĩnh Lộc Thành hoàng. Gia tăng Chính trực Hữu thiện
Đôn ngưng.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư,
quyển II, kỷ nhà Trần, Ngô Sĩ Liên chép: ''Trần Bang Cẩn là vị Đại Hành Khiển
thượng thư tả bộc xạ, là người tin thực, giữ gìn, giản dị, điềm tĩnh, không xa
hoa”. Ngài khi còn sống được vua Trần ban cho bức tượng vẽ và bài thơ ca ngợi
như sau:
“Dạng hình cốt cách
nại đông hàn,
Tướng mạo đình đình
diệc khả khan,
Phong lưu nhất đoạn
hồn miêu tận,
Tâm lý nan miêu cánh
cánh đan”.
Dịch thơ:
Dạng hình cốt cách
tựa cây thông
Tướng mạo nghiêm
trang cũng đáng trông
Mọi vẻ phong lưu tô
được hết
Khôn tô choi chói tấm
son lòng
Thành hoàng Trần Bang Cẩn không có
hậu duệ, nhưng được dân làng hết lòng tôn kính, sự tôn kính đó được biểu hiện ở
hai câu đối trong điện:
“Khai thác hình huân
tồn giả sử
Công hoàng long cảo
điệp triều ân”.
(Công ngài khai thác
còn ghi nhớ
Ơn triều đình mãi mãi
còn ghi).
Thành hoàng Trần Bang
Cẩn là người có công đối với đất nước, quê hương; vì thế, qua các triều đại
phong kiến đều được phong sắc và phong sắc nhiều lần. Hàng năm vào ngày giỗ Ông,
tại làng Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch tổ chức lễ hội cúng Ông tại
điện thờ. Đặc biệt, bên cạnh việc cúng tế, rước sắc, dân làng còn diễn lại sự
tích lịch sử của Ông, để cho con cháu hiểu được công lao của tổ tiên. Theo đó
còn có nhiều trò vui chơi giải trí và hát xướng. Việc thờ cúng này diễn ra rất
lâu đời và vẫn bảo lưu cho đến ngày nay. Đây là một dạng tín ngưỡng khá đặc biệt
mang nhiều yếu tố dân giã và cũng là môi trường tốt góp phần làm cho những xu
hướng nghệ thuật dân gian nảy nở và phát triển, làm đậm đà bản sắc văn hóa địa
phương. Điện thờ của ông còn là điểm tham qua du lịch văn hóa tín ngưỡng dân
gian của Quảng Trạch nói riêng và Quảng Bình nói chung.
(Còn nữa đó nghe
)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)