Trang

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012

QUẢNG BÌNH TỪ GÓC NHÌN ĐỊA VĂN HÓA (Phần Hai tt)


-               NGƯỜI MA COONG




Lễ hội đập trống.
Người Ma Coong thuộc tộc Bru Vân Kiều, cư trú thành từng bản làng nhỏ, rải rác từ biên giới Việt-Lào. Bản Cà roòng (xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình) mảnh đất linh thiêng của người Ma Coong. Nơi đây còn lưu giữ nhiều phong tục, tập quán mang đậm bản sắc văn hóa như lễ hội đâm trâu, lễ hội đập trống (đánh trống)... Lớn nhất là lễ hội đập trống.

Ngoài ý nghĩa cầu mùa màng bội thu, lễ hội này còn có một tập tục tương tự như đêm chợ tình Khâu Vai, là nơi giao duyên, gặp gỡ của đôi lứa nên có sức hấp dẫn rất lớn. Hằng năm vào ngày 16 thánh giêng, người Ma Coong cả già lẫn trẻ, diện những bộ áo quần đẹp nhất, ở khắp các bản gần xa, thậm chí đồng bào Ma Coong ở tận nước bạn Lào cũng kéo nhau về bản Cà roòng tham gia lễ hội đập trống.
Công việc mất nhiều thời gian nhất, đó là chuẩn bị chiếc trống lễ hội. Mỗi năm da bịt mặt trống được thay một lần. Người ta chọn những tấm da trâu đẹp, phơi khô rồi đem cất ở gác bếp, ngày tổ chức lễ hội mới đem ra bịt, tang trống thì được lưu giữ nhiều năm, khi hư hỏng mới thay thế cái khác.
Lễ hội đập trống được thực hiện vào thời điểm dưới ánh trăng tròn đầu năm (16 tháng Giêng âm lịch), trong sự thiêng liêng và sâu thẳm của núi rừng, thành viên ban chủ lễ trong bộ lễ phục truyền thống, áo mầu đen cài khuy bạc, váy màu đen gấu viền đỏ, vòng bạc... (bộ lễ phục này chỉ được mặc trong dịp lễ hội đập trống và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác), với tâm niệm thành kính, khẩn cầu thần linh phù hộ, che chở cho con cháu của tộc người Ma Coong. Mở đầu buổi lễ, già làng phải thắp sáng những cây nêu làm bằng sáp ong và khấn mời “Giàng và con ma mót” về ăn xôi, uống rượu, chứng kiến lễ hội, phù hộ cho người Ma Coong có cuộc sống yên lành, làm ăn no đủ, mùa màng bội thu. Các thành viên khác của ban chủ lễ lần lượt thay nhau vào cầu khấn. Lễ cúng kết thúc khi chủ lễ bốc từng nắm lúa gạo ném ra nhiều phía.
Lễ cúng kết thúc cũng là lúc tiếng trống vang lên, từng nhịp trống dồn dập vang xa, vọng vào vách núi, phá tan sự tĩnh lặng của núi rừng. Tiếng trống và men rượu cần như tiếp thêm sức mạnh cho những người tham gia lễ hội. Từng tốp người cầm tay nhau nhảy múa, thay nhau đánh trống dưới ánh trăng, vừa đánh họ vừa hô to “roa lữ giàng ơi” (sướng quá trời ơi), mà phải đánh làm sao cho mặt trống nứt vỡ trước khi trời sáng. Người Ma Coong tin rằng, năm nào trống đánh kêu to và vang xa, nứt, vỡ sớm thì năm đó dân bản sẽ gặp nhiều điều may mắn, mùa màng bội thu.
Ai cũng được tham gia đánh trống, nhưng hăng nhất là lớp thanh niên, họ muốn mặt trống sớm nứt vỡ, để dẫn bạn tình vào rừng tình tự.
Ngoài ra, người Ma Coong còn có một luật tục ngàn đời rất kinh khủng, ấy là trong 5 năm đầu đời, đứa trẻ phải chết theo mẹ để phục vụ mẹ nếu mẹ chúng chẳng may bị chết. Tuy nhiên những luật tục này ngày đã được giảm bớt.

-               NGƯỜI KHÙA

 
Người Khùa sống hòa mình với thiên nhiên và vẫn duy trì được nhiều tục lệ riêng hết sức nhân văn nơi những triền núi phủ lau ngút ngàn ở miền tây huyện Minh Hóa, Quảng Bình.
Tộc người Khùa rất coi trọng việc ứng xử với tự nhiên. Với rừng, họ thờ thần rừng, với sông suối họ thờ thần nước... Các loại thần, với người Khùa đều đồng nghĩa với ma. Một người am hiểu dân tộc mình, nói rằng: “Cái nơi ta sống có nhiều ma, nên nhà ai cũng có bậc cửa vào ra để thờ ma. Ma làm cho người của ta sợ, ma cũng làm cho người của ta thích kể chuyện, ma làm cho người Khùa biết hát, biết uống rượu, ma làm cho người Khùa biết sinh con đẻ cái,…”. Những hiện tượng thiên nhiên, ốm đau, bệnh tật, không lý giải được người Khùa cho đó là ma và tổ tiên người Khùa đã sáng chế ra một vật thiêng, được coi như vị thần tối thượng điều khiển được ma, ấy là “tà riềng”. Tà riềng là một loại khèn có tiếng nỉ non được thổi lên từ lồng ngực những người thông thái nhất bản sẽ đưa lại sự bình an cho người dân. Khèn Tà riềng làm từ cây lồ ô nhỏ của vùng núi cao nhất bản, thanh âm trong vắt vỗ về ma trú ngụ trong từng căn nhà, để ma phù hộ cho người Khùa tai qua nạn khỏi, mùa màng khấm khá. Ngoài ra tiếng nỉ non của Tà riềng còn làm cho những món ăn aboong, adoong, abiing ngon hơn từ cá suối, cá khe.
Làng bản của người Khùa
Quan niệm mộc mạc ấy rất nhân văn và đầy mơ mộng. Có lẽ cũng vì thế mà mọi thành quả từ chăn nuôi, trồng trọt, người Khùa dùng chủ yếu vào cúng bái, lễ lạc hơn là mưu sinh. Với người Khùa, phần hồn quan trọng hơn phần xác. Con người chết đi, hồn được lên cõi trời và ở đó mới có cuộc sống bất tử.
Người Khùa có một luật tục là tục cưới vợ ba lần. Tục này chắc rằng trên thế giới không có tộc người nào có, đó là đàn ông phải cưới vợ đúng ba lần. Đây không phải là cưới 3 người vợ mà chia giai đoạn cưới vợ ra làm 3 kỳ.
-    Lần thứ nhất (được gọi là “bắt vợ”). Nói là bắt vợ nhưng không phải dùng vũ lực, bởi diễn ra nhẹ nhàng. Chàng trai cùng ông cậu đến nhà gái, đập mạnh vào chân cầu thang nhà sàn, bố mẹ cô gái sẽ ra canh cửa. Ông cậu của chàng trai đưa qua khe cửa một thanh kiếm, một con gà, một chai rượu. Khi bố mẹ cô gái uống rượu với ông cậu, chàng trai len lén vào phòng đưa cô gái về nhà làm vợ. Một tuần sau, chàng trai đưa cô dâu về lại nhà bố mẹ vợ để làm lễ cơm thưa trình thành con rể, ở lại một ngày đốn củi đầy bếp mới về, như là cách trả ơn bố mẹ đã sinh ra cô gái cho mình lấy làm vợ.

 Đám cưới của người Khùa

-         Lần thứ ha: (được gọi là lễ cưới ngãi). Vợ chồng cật lực làm lụng, đến khi tích lũy được gia sản thì làm lễ cưới thứ hai, mời bà con xóm bản đến ăn uống chung vui. Nhưng cũng có người cưới ngãi chỉ sau vài năm.
-         Lần thứ ba: là lễ cưới quan trọng, rôm rả và long trọng nhất để chứng tỏ là một người đàn ông Khùa thực thụ. Đám cưới đó còn thể hiện uy lực của người Khùa khi quanh họ có con đàn, cháu đống về bên sân nhà sàn, bưng đầy từng ché rượu, cổ áo đính dày đồng bạc. Heo, bò được mổ, gạo nếp được nấu, khách khứa vào ra ăn uống tấp nập.
Đám cưới lần ba này rất tốn kém, nhưng đó là phong tục phải làm. Tốn kém như vậy nên nhiều người Khùa khi lớn tuổi vẫn không tổ chức nổi lễ cưới lần thứ ba. Họ chết đi, con trai trưởng phải gánh vác trọng trách làm đám cưới ấy cho cha mẹ, gọi là “đám cưới ma”. Người Khùa không thể bỏ đám cưới ma được. Họ quan niệm đây là luật tục đặc trưng quan trọng nhất của tộc người Khùa, để chứng minh sự thành đạt của đàn ông Khùa, nếu bỏ đám cưới này thì tộc người Khùa không còn là người Khùa nữa.
  Ngoài ra, người Khùa còn có tục giữ lửa
 Với quan niệm, dãy núi Giăng Màn trước mặt các bản Hà Vy, Dộ, Loòm, Cà Ai, Tà Vờng, Cà Chăm là nơi tiếp sinh khí, sinh ra trí tuệ, sinh ra cái chữ, sinh ra tiếng nói, sinh ra niềm vui, nỗi buồn và cũng là nơi sinh ra nỗi sợ của người Khùa, sinh ra ma cho người Khùa. Vì núi Giăng Màn quanh năm phủ đầy mây, người Khùa phải có trách nhiệm vun vén cho ma núi nhiều khói sương hơn nữa để giữ gìn hồn cốt tộc người mình, nên già trẻ, gái trai đều hút thuốc. Hút thuốc là cách mà người Khùa giữ lửa cho tộc mình.
Người Khùa tự trồng lấy thuốc lá, điếu thuốc người Khùa hút to như ngón chân cái, nhả đầy khói, vướng vất quanh bản. Người Khùa tin khói thuốc của họ càng làm núi Giăng Màn mờ ảo hơn, và cho họ nhiều sức mạnh hơn. Họ nói, hút thuốc là cách để dân bản nhớ đến núi Giăng Màn, nhớ đến gốc gác, tổ tiên người Khùa. Cái bếp của người Khùa cũng không bao giờ tắt lửa, âm ỉ cháy để khói bay vào núi. Đấy là cách để nhắc nhớ cháu con người Khùa biết rõ nguồn gốc mà giữ gìn bản sắc của mình….
Nói đến những phong tục tập quán nhiều màu sắc của các cộng đồng thiểu số, không có nghĩa là tất cả đều đẹp, mà họ chính là những cộng đồng hiện có đời sống nghèo nàn lạc hậu với không ít hủ tục cần phải loại bỏ. Những tập quán muôn màu này chính là những bảo vật quốc gia cần phải được nghiên cứu, bảo tồn và phát triển. Bảo vật này sẽ làm giàu cho kho tàng văn hóa Việt Nam, nếu ta biết cách bảo tồn và phát huy nó. Ở một góc độ nào đó, nếu được quan tâm đầu tư đúng mức, đây chính là tài sản vô giá của Quảng Bình mà ít nơi nào có được.
 Chỉ điểm qua một vài tộc người tiêu biểu của cộng đồng thiểu số Quảng Bình, ta đã thấy được sự đa dạng phong phú của những nét văn hóa truyền thống lâu đời. Nếu được nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những luật tục mang đậm nét nhân văn, Quảng Bình sẽ là một địa chỉ mà ai ai cũng muốn tìm đến để được tìm hiểu và chiêm ngưỡng.
Ngoài những cộng đồng thiểu số đặc trưng, Phong Nha - Kẻ Bàng từng là nơi tá túc của Vua Hàm Nghi trong phong trào Cần Vương ở địa bàn xã Hoá Sơn (nay thuộc huyện Minh Hoá).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rừng Phong Nha - Kẻ Bàng còn lưu lại nhiều dấu tích lịch sử oai hung như: đường mòn Hồ Chí Minh Đông Trường Sơn, các di tích Hang Tám Cô, hang Chín Tầng, bến phà Nguyễn Văn Trỗi, các kho hàng hoá trong hệ thống hang động ở Tuyên Hoá, Minh Hoá... Động Phong Nha cũng có một thời được bộ đội đoàn 559 dùng làm nơi cất giấu hàng hoá và những chiếc phà sắt cồng kềnh để vận chuyển xe, hàng ra tiền tuyến.
Dưới góc nhìn của một người nghiên cứu về văn hóa, tôi nhận ra nhiều điều vô cùng quý giá nơi vùng đất này. Quảng Bình đang ôm trong lòng khối tài sản vô giá về lịch sử, văn hóa và thiên nhiên. Nói cách khác, Quảng Bình đang là viên kim cương thô chưa được nghiên cứu chế tác để rực sáng.
                                                                    (còn phần ba "đủ đọc" )

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]