2.        NHỮNG CÂU CHUYỆN ÍT NGƯỜI 
BIẾT ĐẾN
Đồng Hới là thủ phủ của 
Quảng Bình, nguồn nước ngọt cung cấp cho cư dân  ở đây được lấy từ 
Bàu Tró. 
Ngoài tầm quan trọng ấy ra, hồ Bàu Tró còn là niềm tự hào của người dân Quảng 
Bình bởi giá trị về khảo cổ học. Sau khi khai quật các hiện vật có niên đại 
khoảng 5.000 năm tuổi tại hồ này, các nhà khảo cổ Pháp đã lấy tên của di chỉ này 
để đặt cho nền văn hoá hậu kỳ đá mới phân bố ở vùng ven biển Nghệ An, Hà Tĩnh, 
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là văn hoá Bàu Tró. Các hiện vật Bàu Tró là 
những di vật quan trọng cho việc nghiên cứu dấu tích của người Việt tại khu vực 
Trung Bộ. 
  
Một góc của Bàu 
Tró
 Hiện nay, Bàu Tró đang được đề nghị 
một chế độ bảo vệ nghiêm ngặt vì nó chẳng những là nguồn nước phục vụ sinh hoạt 
cho một vùng cư dân trù phú mà còn là một di chỉ khảo cổ học, một thắng cảnh nổi 
tiếng.
Di chỉ khảo cổ 
học Bàu Tró ở vào 106 độ 37’13" kinh độ Đông, 17 độ 29’30" vĩ độ Bắc. Cuối mùa 
hè năm 1923, nhà  địa chất kiêm khảo cổ học Páttơ (Etinen Patte) đã 
tổ chức khai quật Di chỉ Bàu Tró. Hiện vật thu được còn lưu giữ tại Viện bảo 
tàng lịch sử việt Nam gồm công cụ lao động và những mảnh gốm vỡ, xương cá, vỏ 
sò,… 
-         
Công cụ 
săn bắt, trồng trọt: rìu bôn, cuốc là những công cụ sản xuất quan trọng nhất đều 
được mài toàn thân và rìu bôn có vai là công cụ đá tiêu biểu nhất của văn hoá 
Bàu Tró;
Công cụ lao động được khai quật 
-         
Công cụ 
chế biến thức ăn: Hòn đá bằng thạch anh (Páttơ gọi là hòn ghè: Perueteur) và bàn 
nghiền hạt;
-         
Công cụ 
chế tác đồ gốm: dụng cụ đá dùng để tu chỉnh ép (Reto-uchoir), 1 số thổ hoàng (đá 
son) cùng những mảnh gốm vỡ khá phong phú và đa dạng, bao gồm 3 loại khác nhau: 
gốm đáy nhọn văn chải 2 mặt, gốm đáy tròn văn thừng, gốm đáy tròn hoặc có chân 
đế trang trí văn khắc vạch trên nền thừng kết hợp với tô màu đỏ;
-         
Công cụ 
đánh bắt cá: chì lưới và đốt xương sống cá, vỏ sò,… 
Với những di 
vật được khai quật, ta thấy được cư dân tại đây đã đạt đến trình độ chế tác công 
cụ lao động cao và khẳng định tư duy lao động thời ấy đã có nhiều tiến bộ. Nhất 
là những hoa văn trang trí trên những mảnh gốm vỡ cũng đã thể hiện được khả năng 
thẩm mỹ của người xưa. Những điều này chính là nét đặc trưng quan trọng phân 
biệt giữa văn hoá Bàu Tró với các văn hoá đá mới khác.
Mảnh gốm vỡ
Cùng với Bàu 
Tró, một số hang động thuộc khu vực vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng cũng đã được 
khai quật và được khẳng định là văn hóa Hòa Bình từ một nữ khảo cổ 
người Pháp tên Cô-la-ni (Madeleine Colani) vào năm 1926.  Sau khi 
phát hiện nhiều di vật ở các hang động phía tây Quảng Bình, bà kết luận: có sự 
hiện diện của văn hóa Hòa Bình ở khu vực này. 
Chủ nhân của 
văn hoá Hoà Bình trên đất Quảng Bình thời tiền sử đã sống trong các hang động, 
các mái đá. Họ thường chọn những nơi nhiều ánh sáng và gần nguồn nước nên những 
di vật còn sót lại cho thấy thức ăn chủ yếu có được là do kết quả từ việc đánh 
bắt cá và hái lượm. Dần dần, theo mực nước thuỷ triều rút xuống, họ đã lần theo 
các triền sông có đất đai màu mỡ di cư xuống đồng bằng ven biển, chinh phục 
thiên nhiên, xây dựng làng bản. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những di chỉ làng 
ven các dòng sông như: di chỉ Cồn Nền nằm ở bờ Bắc sông Gianh chừng 200m, di chỉ 
Lệ Kỳ nằm sát một dòng sông cổ bị vùi lấp v.v... đều thuộc hậu kỳ đồ đá mới của 
Bàu Tró kéo dài sang đầu thời đại kim khí. 
Từ đó, có thể 
nói rằng văn hóa Bàu Tró cũng chính là sự nối tiếp của nền văn hóa Hòa Bình được 
lan rộng bởi những cuộc di dân của người tiền sử trên lãnh thổ Việt Nam. 
Giếng cổ Chăm hơn 2.500 tuổi tại di 
chỉ Cồn Nền
Ngoài những 
phát hiện trên, các nhà khảo cổ còn tìm thấy những dấu vết Chăm  ở 
Phong Nha trên những bức tượng đá và bàn thờ xây bằng gạch đỏ của người Chăm vào 
thế kỷ IX-X. Cho thấy hang động này là nơi lưu giữ những dấu tích của người Chăm 
cổ từ miền Bắc vào miền Nam. Đặc biệt, hiện nay ở Phong Nha vẫn còn 97 ký tự cổ 
khắc trên đá tại hang Bi ký. 
Chữ Chăm trong hang Bi 
Ký
 Viện Khảo cổ học Việt 
Nam năm 1995 đã nhận định: 
động Phong Nha là một di tích khảo cổ học vô cùng quan trọng. Những dấu tích ở 
hang Bi Ký trong động có thể là một thánh đường Chăm Pa từ thế kỷ IX đến thế kỷ 
XI. Nơi đây, cũng đã phát hiện nhiều mảnh vỡ các bình gốm tráng men Chàm cùng 
các mảnh gốm thô sơ có lõi đen.
Nổi tiếng và được sắp vào di sản 
thiên nhiên thế giới, Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ là thắng cảnh thiên nhiên lưu 
giữ và chứa đựng nhiều di vật tiền sử mà Phong Nha 
- Kẻ Bàng còn có những cộng đồng thiểu số với những phong tục tập quán đa dạng 
và độc đáo
-               
NGƯỜI 
VÂN KIỀU (còn gọi là người Bru)
Vốn 
là cư dân nông nghiệp có trình độ tương đối phát triển, tập trung sinh sống tại 
vùng trung Lào, sau những biến động của lịch sử diễn ra nhiều thế kỷ, họ phải di 
cư đi các nơi. Một số đi theo hướng tây bắc sang Thái Lan, một số đi theo hướng 
đông tụ lại vùng miền núi phía tây Quảng Bình, họ dựng làng xung quanh hòn núi 
Vân Kiều (núi Viên Kiều), về sau người Việt lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng 
của người Bru, và từ đó họ còn được gọi là Bru - Vân Kiều
Lễ hội đâm 
trâu
Ngôn 
ngữ của họ thuộc nhóm ngữ hệ Môn- Khơ Me, bên cạnh những nét văn hóa truyền 
thống, họ có tư duy sống không khác mấy so với người kinh. 
Trước 
kia y phục che thân chủ yếu từ vỏ cây rừng đập dập lấy xơ. Theo phong tục, nam 
đóng khố, nữ mặc váy, áo chui đầu, không có tay. Ðồ trang sức thường đeo là các 
loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ 
búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu. Dấu 
hiệu này là sự khẳng định nhân thân của mỗi người. Ở một góc độ nào đó, thì đây 
là một tập quán rất nhân văn.
Tập 
tục trong cưới hỏi của người Vân Kiều không khác gì người Kinh. Nhưng trong ma 
chay thì  người Vân Kiều quan niệm, sống chết là quy luật của thiên 
nhiên, của tạo hóa (đây là một cách nghĩ rất sáng). Con người cũng như cái cây, 
con thú trên rừng vậy, có sinh ra lớn lên rồi sẽ chết đi. Sống được rừng che 
chở, được rừng cho cái ăn, cái mặc, ngôi nhà để ở, con nước để uống nên khi chết 
phải trở lại với rừng, tiếp tục sống gắn bó với rừng ở một thế giới khác. Người 
Vân Kiều thường chôn người thân dưới những gốc cây to, tượng trưng cho những lời 
khẩn cầu, mong thần rừng che chở cho linh hồn của người đã khuất và họ luôn coi 
chốn ấy là cõi thiêng bất khả xâm phạm. Thế giới tâm linh với người Vân Kiều là 
đặc biệt quan trọng, nơi những khu rừng được chọn cho cõi vĩnh hằng được bảo vệ 
rất nghiêm túc. Đây không chỉ là bảo vệ thế giới tâm linh của dân làng mà còn là 
gìn giữ những gì thuộc về nét đẹp trong phong tục tập quán của mình. 
-         
NGƯỜI 
AREM 
(nằm trong nhóm tộc người: Arem, Chứt, Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Xá lá 
vàng)
Ngôn ngữ Arem thuộc 
nhóm ngôn ngữ Việt – Mường. Các nhà khoa học khẳng định, người Arem có gia 
tài văn hoá rất đặc biệt. Họ có ngôn ngữ, có phong tục với những bí ẩn lạ lẫm, 
chưa khám phá hết.
Năm 1956 khi lần đầu 
tiên người Arem được phát hiện ở Quảng Bình, họ chỉ có chưa đến 100 người. Cuộc 
sống người Arem nguyên thuỷ trong những hang đá hoặc dưới rèm đá ở rừng già 
Phong Nha - Kẻ Bàng (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình). Thời điểm đó, người ta 
cho rằng người Arem ngoài cuộc sống “ăn lông ở lỗ” ra họ không có bất cứ tài sản 
nào về tinh thần. Thế nhưng mới đây, người Arem đã làm cho mọi người phải ngạc 
nhiên. Nếu ta gặp bất cứ một người Arem nào và hỏi: Anh thuộc tộc người nào? 
Người Arem sẽ không ngần ngại nói: “Chăm rău Arem”- nghĩa là “tôi là người 
Arem”. 
Cách thể hiện này đã 
gây sự chú ý mạnh với các nhà ngôn ngữ học ngôn ngữ và văn hoá người Arem hấp 
dẫn giới ngôn ngữ đến kỳ lạ. Theo nhà ngôn ngữ học Trần Trí Dõi thì đó là hình 
ảnh của tiếng Việt thời cổ xưa, như một nhà bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát 
triển của tiếng Việt, là di chỉ cần “khảo cổ” để tìm hiểu lịch sử tiếng Việt. 
Cũng theo nhà ngôn 
ngữ học Trần Trí Dõi: “Trước đây, giới ngôn ngữ học rất khó khăn trong việc 
chứng minh tiếng Việt xưa kia là song tiết (hai tiếng), qua quá trình vận động 
nó đã chuyển hẳn sang thứ ngôn ngữ đơn tiết (một tiếng). Khi tìm hiểu tiếng Arem 
và nhiều ngôn ngữ khác tương tự người ta đã giải thích được quá trình này. Dạng 
thức hai âm tiết rất phổ biến trong tiếng Arem, nếu người Việt nói gió, đất, là 
một tiếng thì người Arem gọi gió là kaja, đất là atăk. Ngoài ra, căn cứ vào âm 
tiết, các nhà ngôn ngữ còn nghiên cứu tiếng Arem về mặt thanh điệu (dấu) để 
chứng minh tiếng Việt xưa kia là ngôn ngữ chưa có dấu. Rất đáng tiếc, hiện nay 
ngôn ngữ Arem chỉ còn mỗi tiếng nói, vẫn chưa tìm được gia tài chữ viết của họ ở 
đâu. Tiếng nói người Arem chỉ dùng trong cộng đồng của mình. Những tộc người 
láng giềng như Ma Coong, Rục, Mày, Sách, Kinh... ít người nói được tiếng Arem. 
Nhưng hầu như người Arem nào cũng nói được tiếng của những tộc láng giềng, gặp 
người Khùa họ nói tiếng Khùa, gặp Ma Coong họ dùng tiếng Ma Coong để giao 
tiếp.
Với người Arem, con 
gái là tài sản quý của dòng họ, mỗi dịp ai sinh con gái họ liền mở rượu ăn mừng. 
Con gái đến tuổi lấy chồng, con trai phải làm lễ bỏ của theo yêu cầu của nhà 
gái. Lễ bỏ của phải có rượu, bạc, gà trống và tiền mặt. Lễ bỏ của bên nhà gái do 
cậu ruột quyết định và được hưởng trọn vẹn, bố mẹ của cô gái không được gì. Cưới 
xong cô gái đi làm dâu, nếu bên chồng làm việc gì để cô gái bỏ về thì chồng phải 
chuẩn bị 3 hũ rượu, 3 con gà trống và cả tiền mặt nữa qua nhà gái gặp cậu làm lễ 
xin lại vợ. Cậu đồng ý mới được mang vợ về, nếu để vợ bỏ về lần nữa thì lễ xin 
vợ tăng lên gấp đôi. 
Trong thăm thẳm của 
mênh mông núi rừng, người Arem như hiện thân của nhiều bí ẩn nguyên sơ mà các 
nhà nghiên cứu cần quan tâm...
( vẫn còn )







 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]