Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

A...iii, CHÁU NỘI ĐÂY!


Bài chuyển từ Multifly

A...iii, CHÁU NỘI ĐÂY! May 19, '11 12:17 PM
for everyone

A...iii cháu nội đây!


A…iiii, cháu nội nào!
Xin thông báo với toàn thể anh chị em, PTGD đã có cháu nội “chai”.
Tên tục là Cà rốt, tên cúng cơm Mẫn Tuệ. Do cô Quý Khoa, bệnh viện Từ Dũ mổ lấy ra vào lúc 9g sáng ngày 15 tháng 5 năm 2011, cân nặng: 2,8kg.
Bữa nay được 4 ngày, nhưng bệnh viện tính tiền 5 ngày . Coi như lì xì cho bệnh viện 1 ngày 
Niềm vui quá “bự” đến không thể nói lên lời. PT chỉ biết khoe “hàng” và tự sướng!
Mong "Pà kon niệm tình" tha thứ!
1 copy.JPG
Đám cưới
1. Đo điện tim cho Cà Rốt tước khi sanh.JPG
Đo điện tim cho Cà Rốt trước khi lên phòng sanh
2. Chuẩn bị lên phòng sanh.JPG
Chuẩn bị lên phòng sanh
3. 1g tuổi.JPG
Cà rốt 1 giờ tuổi
6.4.JPG
4. 6g tuổi.JPG
Cà rốt 6 giờ tuổi
5. 8g tuổi bắt đầu bú mẹ.JPG
Cà rốt 8 giờ tuổi bắt đầu bú mẹ
6. 12g tuổi.JPG
Cà rốt 12 giờ tuổi
DSC03905.JPG
Cà rốt 38 giờ tuổi

NGÔN NGỮ CỦA DỪA




NGÔN NGỮ CỦA DỪAlam dep bang qua dua Tác dụng từ dừa làm da đẹp eo thon và tốt cho người ăn kiêng  
Như bao loại cây trồng khác, dừa đươc trồng bởi lợi ích thiết thực của nó với cuộc sống của người trồng nó.
Ngày nay dừa được trồng với 1 giá trị mới, ấy là tạo cảnh quan cho những dự án phục vụ du lịch. Chưa ai trồng dừa với mục đích chống bão giông trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt hiện nay.
Là loại cây đơn trục với cấu trúc của lá theo thùy lông chim nên khi đối diện với những trận cuồng phong, như có phép thuật, những chiếc lá mềm mại như suối tóc  người phụ nữ của dừa đã xoay chuyển và hóa giải để sau khi vượt qua suối tóc ấy, gió trở nên bớt hung hãn cuồng nộ.
Những buổi trưa hè oi ả, nếu có được trái dừa  giải khát sẽ thú vị biết bao. Bởi nước dừa đã giúp cơ thể ta thanh nhiệt giảm bớt độc tố trong bài tiết.
Những ngày lễ Tết, trên bàn thờ nếu có được trái dừa ta cũng cảm thấy yên lòng bởi sự viên mãn, vừa đủ,  tinh khiết và an lành.
Riêng với tôi, dừa còn là đam mê với nhiều bí ẩn cần được khai phá bởi tính đa dạng trong văn hóa đời sống của cộng đồng người Việt.
Rất tiếc khi những nhà nghiên cứu Văn hóa Chăm chưa khai mở được hết những bí ẩn của bộ tộc Dừa trong đời sống văn hóa tâm linh của người Chiêm Thành xưa.
Trong kinh Thánh dừa là biểu tượng của sự cống hiến hy sinh không toan tính.
Trong đạo Phật, dừa được dùng trong hình tượng của sự chấp ngã và chàng Sọ dừa cũng là biểu thị của Phật tính trong văn học dân gian.
Trong tâm linh, dừa tượng trưng cho sự thanh bạch trong sáng và đầy đủ.
Trong ẩm thực dừa góp vào đó như sự viên mãn đủ đầy của vị béo thơm.
Và trong phép ứng xử, dừa biểu thị cho sự hồn hậu chân tình qua chiếc gáo múc nước bên hiên nhà, qua ngọn đuốc dừa trong đêm tối lỡ đường.
Chiếc chổi chà dừa biểu trưng cho sự cần mẫn không quản cực nhọc khó khăn của người phụ nữ.
Với những kẻ tha hương, khi nhìn thấy bóng dừa đâu đó, mấy ai thoát khỏi chạnh lòng.
Và điều khắc khoải hơn là làm thế nào để tôn vinh được cây dừa qua những giá trị văn hóa mà ít cây nào có được.
Hãy cùng tôi các bạn nhé, xin chúng ta mỗi người một câu chuyện cho dừa nhằm tôn vinh 1 loại cây chỉ biết cống hiến mà không có nhu cầu được bón chăm săn sóc nhưng vẫn đều đặn mỗi tháng cho ta 1 buồng (quầy) quả ngọt.
______________

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

MẸ ƠI!



                                                                                          MẸ ƠI...!
                                                        Saigon 22/8/2010 - 5:00 AM
Bài được chuyển từ Mulitifly sau khi được biết bên nớ sắp cáo chung


  Mẹ cùng 2 trai, 3 rể Tết 2010
“Mỗi mùa xuân sang, mẹ tôi già thêm một tuổi. Mỗi mùa xuân sang, ngày tôi xa mẹ càng gần” …
Cứ mỗi lần nghe những ca từ này, con lại tự trách mình nhiều hơn và thấy lỗi với mẹ ngày càng dày hơn.
Lỗi của con là ít về thăm mẹ, bởi nhiều sự, nhưng cái sự lớn nhất ấy chính là sự lười biếng. Bởi sau 1 ngày mải mê với công việc, con lại tất tả về với tổ ấm của mình để được ngả lưng thư giãn. Áp lực công việc khiến con ít dành thời gian cho mẹ. Những hôm nào làm việc ở nhà thì thậm chí con cũng quên cả ăn cơm. Mải miết trên mạng tìm tư liệu để đọc, để viết, để gom nhặt kiến thức, hoặc đôi khi thăm thú bạn bè đến khi mệt quá thì trời cũng đã khuya rồi.
Cứ hẹn lần, hẹn lửa, đôi khi cả 10 ngày con không về thăm mẹ.
Chiều nay chủ nhật, trời mưa, nhưng con sẽ về thăm mẹ.
Mẹ lại sẽ hỏi khi nghe thấy tiếng con:
-           Đứa nào đó? Thanh hả con?
-           Dạ.
Và con lại xà vào hôn lên đôi mắt chỉ còn phân biết sáng tối của mẹ.
Đã hơn 20 năm rồi, sau hơn 10 lần giải phẫu, ghép giác mạc, lại giải phẫu, nhưng rồi y học phải chịu thua vì không thể nào cứu nổi.
Con còn nhớ lần mẹ mổ mắt đầu tiên vào năm 1968. Sau những ngày Tết đau đớn lăn lộn, ba cùng con đưa mẹ vào phòng mạch của Thạc sỹ Cát tại đường Bà Huyện Thanh Quan để khám. Con ở lại để chuẩn bị cho ca mổ của mẹ. Ba về nhà chuẩn bị mọi thứ.
Ngày ấy, một cô bé 12 tuổi vẫn còn mải chơi nào biết chi đến tai họa sắp giáng xuống gia đình mình. Sáng hôm sau, rất hồn nhiên, con đưa mẹ vào phòng mổ và ra ngoài ngồi chờ. Chờ mãi, không biết bao lâu nữa, con thấy số ruột, thế là lững thững ra ngoài phố tìm nhặt me rụng. Có trái me nào đâu vào những ngày sau Tết. Lầm lũi 1 lúc, con quay về phòng mổ. Lại ngồi chờ, ngồi chờ… Và rồi y tá cũng đã gọi con. Cùng y tá đưa mẹ về phòng, con nào biết việc gì đã xảy ra. 3 hôm sau mắt mẹ cắt băng. Chỉ thấy mẹ thầm thì với ba con điều gì đó, làm ba lặng người đi. Sau đó con được biết, lần mổ mắt ấy của mẹ bị thất bại, và có thể mẹ sẽ bị mù vĩnh viễn.
Mắt mẹ đã ổn, nhưng mẹ phải đeo thêm kính…
Rồi con đi bộ đội.
Sáu năm, sau ngày giải phóng, con từ miền Bắc trở về, thị lực của mẹ giảm đáng kể sau những đòn tra tấn của cảnh sát và khóc thương các em trong những ngày không có mẹ cha.
Năm 1972, ở tù ra, mắt mẹ đã hoàn toàn không thấy gì nữa. Bà con chòm xóm và khách hàng nghe tin mẹ về đã lần lượt đến thăm và thanh toán nợ nần để mẹ có tiền đi mổ mắt. Phải qua 4 lần phẫu thuật mắt mẹ mới bắt đầu trông thấy. Và mẹ lại tiếp tục chích thuốc, chữa bệnh cho bà con chòm xóm nhưng mắt mẹ luôn phải đeo kính và bên mẹ luôn phải có loại thuốc đặc trị dành cho mắt nhỏ mỗi ngày. Đầu mẹ luôn đau nhức bởi nhãn áp luôn tăng.
Năm 1986, ba mẹ cùng nhau ra Bắc để đăng ký ghép giác mạc cho mẹ. Sau gần 4 tháng chờ đợi và may mắn thay, mẹ trở về với đôi mắt đã có được ánh sáng. Nhưng rồi cứ ngày 1 tối dần đi, mẹ lại tiếp tục thêm những lần mổ mắt bởi những chuyên gia về mắt hàng đầu thế giới đến Việt Nam, cho đến lần cuối cùng là năm 1990. Mẹ lại tiếp tục chờ ca phẫu thuật mới từ 1 đoàn bác sỹ từ Mỹ. Họ khám mắt cho mẹ xong và hết sức ngạc nhiên vì sao mắt mẹ với từng ấy năm mà vẫn còn trong suốt, chỉ tiếc, gai thị đã teo mất rồi. Họ đâu biết mẹ đã liên tục trải qua hơn chục cuộc phẫu thuật hòng lấy lại ánh sáng cho đôi mắt với đau đớn hằng ngày do nhãn áp liên tục tăng.
Họ từ chối mổ, bởi không thể giúp gì được cho mẹ.
Và từa đó tới nay, mắt mẹ mờ dần cho đến nay, chỉ còn sáng tối mà thôi.
Ngày ba con mất, mẹ đã cố nuốt nước mắt vào trong để các con yên tâm lo cho ba. Mọi việc xong xuôi, mẹ gọi các con lại bảo: Ba đã mất rồi, nay chỉ còn có mẹ, mẹ phải cố sống để các con còn có chỗ đi về. Lời mẹ nhẹ nhàng đơn giản chỉ có thế, nhưng chúng con hiểu, từ trong tận sâu thẳm, với mẹ, ấy chính là mệnh lệnh của trái tim. Bởi tuổi kề 80 với căn bệnh tim mạch và tiểu đường, mẹ phải ngày đêm chống chọi.
Mẹ đã hằng ngày tập thể dục, đi lại hàng trăm vòng trong nhà, tập Dịch chân kinh để giảm đau nhức và tăng cường sức khỏe để chống chọi với bệnh tật. Mẹ không bỏ 1 cữ thuốc nào, mẹ cố ăn kiêng, mẹ không bỏ 1 buối tập thể dục nào và cũng không hề trách cứ khi các con muộn về thăm.
Bạn của mẹ nhiều bác bị tiểu đường sau mẹ đã lần lượt ra đi, bởi họ không bền bỉ như mẹ, bởi họ không sợ rằng: Nếu mẹ mất đi, các con sẽ không còn chỗ đi về.
Mẹ ơi, chiều nay con sẽ về thăm mẹ. Nhất định là thế!

Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012

CHO CON


Bận rộn với công việc và nhìn con cháu đùa vui là hạnh phúc.
Vậy mà đâu phải lúc nào cũng có công việc để mình bận rộn, đâu phải các con lúc nào cũng đùa vui.
Mệt mỏi nhất là công việc bận rộn, hạnh phúc của con lại lung lay.

Con trai yêu của mẹ,
Để vượt qua được sức ì của bản thân thật là khó. Giờ đây hơn lúc nào hết, mẹ mong con yêu của mẹ hiểu được sự lo lắng của mẹ dành cho con. Con không còn bé thơ để mẹ sửa cho từng lời nói. Con không còn bé thơ để mẹ hôn lên vết đau khi con ngã té, nhưng hãy để mẹ hôn lên sự nông nỗi, để con bình tâm lại và hiểu mình cần phải làm gì để có thể ngẩng cao đầu trong cuộc sống.
Mẹ yêu và luôn lo lắng cho con.


Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2012

DANH THẦN QUẢNG BÌNH (cuối cùng)


Tại Hà Nội ngày nay, ở chùa Liên Phái, trong nhà Tổ bên cạnh các tượng Phật còn có tượng Nguyễn Đăng Giai, một danh thần triều Nguyễn quê ở làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Xuất thân từ gia đình quí tộc, Ông là con trai Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Đăng Tuân, là bố của tiến sỹ Nguyễn Đăng Hoành. Năm 1825, dưới thời Minh Mạng, năm Minh Mạng thứ nhất, Nguyễn Đăng Giai đỗ cử nhân, rồi làm quan, từng giữ chức Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội – Bắc Ninh), Thượng thư bộ Hình, Kinh lược sứ Bắc Kỳ… Ông làm quan dưới 3 đời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, được vua Thiệu Trị và vua Tự Đức hết lời khen ngợi vì ở chức vụ nào, ông cũng hoàn thành sứ mạng một cách vẻ vang.
Dưới triều Minh Mạng, Nguyễn Đăng Giai được bổ vào làm ở Hàn lâm viện, rồi thăng Lang trung bộ Hộ, làm Tham hiệp trấn Nam Định, làm Hộ lý quan phòng cửa Tuần Phủ, Thanh Hóa. Với tài điều binh khiển tướng, nhiều mưu lược và vì an nguy xã hết lòng tắc, Đăng Giai được điều động đi khắp nơi từ Nam ra Bắc để bình định phiến loạn và chăm sóc đời sống dân lành.
Dưới triều Thiệu Trị, năm đầu Thiệu Trị (1841), Nguyễn Đăng Giai làm Tổng đốc Ninh Thái (tức Bắc Ninh và Thái Nguyên). Với tài thao lược, 3 năm sau ông làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), rồi làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình).
Dưới triều Tự Đức, năm Tự Đức thứ nhất (1848), Nguyễn Đăng Giai làm thự Hiệp biện đại học sĩ, sau đó thì làm Thượng thư bộ Hình kiêm sung Quốc sử quán Tổng tài. Ông dâng sớ điều trần 10 khoản về việc hình, 13 khoản về các việc đúc tiền, tuyển lính, khẩn hoang, vỗ yên dân...Tất cả đều được nhà vua nghe theo.
Khi ấy, vì mới lên ngôi, nhà vua muốn sai sứ sang nhà Thanh cầu phong. Nguyễn Đăng Giai liền dâng sớ can ngăn, đồng thời đề xuất ý kiến là nên mời sứ thần nhà Thanh sang làm lễ bang giao tại kinh đô Huế, vừa giữ được lễ, vừa ít tốn kém. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép:
...Vua cho lời nói (của ông) là phải, sai phát quốc thư đệ đạt đi. Đến khi sứ nước Thanh là Lao Sùng Quang đến Kinh, làm lễ bang giao, tình ý thỏa hợp, Vua cho Đăng Giai (là người) đầu tiên kiến nghị ra, giữ được quốc thể lắm, thưởng (cho ông) một đồng kim tiền có chữ “Long vân khế hội” và ba tấm nhiễu màu.
Tuy được nhà vua khen và tin cậy, nhưng Nguyễn Đăng Giai không được lòng các quan đồng triều. Cho nên khi khuyết chức Tổng đốc Nghệ An, nhiều người đã đồng đề cử ông đi, buộc ông phải dâng sớ xin từ chối. Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), vùng Hữu Kỳ (gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) mất mùa, nhà vua bèn chọn Nguyễn Đăng Giai làm Hữu Kỳ Kinh lược đại sứ lĩnh chức Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), kiêm coi đạo Thanh Hóa. Đến nơi, ông gửi sớ về xin vua cho sắp đặt lại nhiều việc, trong đó có việc cho bãi lệnh cấm bán gạo, hoãn thu thuế, tha cho các khoản thiếu, mở các cửa quan và đình đặt đồn để cho dân tự do đi lại giao thương...Lời tâu của ông lại được vua khen, và sai đình thần chọn lấy để thi hành.
Mùa đông năm ấy, ông lại tâu xin truy phong các bề tôi tiết nghĩa ở cuối đời Hậu Lê, lại được vua nghe theo. Xét công, nhà vua thưởng cho ông một cái bài đeo bằng ngọc tốt chạm khắc hoa mai, một đồng tiền hạng lớn có chữ "Vạn thế vĩnh lại".
Năm Tân Hợi (1851), tàn dư của các cuộc nổi dậy chống Thanh nhưng đã biến chất, từ Quảng Tây (Trung Quốc) xiêu dạt tới cướp phá đất Cao Bằng. Nhà vua liền đổi Nguyễn Đăng Giai đi làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) kiêm sung Kinh lược các tỉnh là: Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên) và Lạng Bằng (Lạng Sơn và Cao Bằng).
Sau khi đi xem xét các nơi, ông dâng sớ lên vua trình bày 5 điều về sự trù tính công việc ở biên giới. Được nhà vua chấp thuận, ông liền lệnh cho các tỉnh chọn lính (tuyển thổ binh, tuyển cả phạm nhân tội lưu), bãi chức lưu quan, đặt lại thổ quan...để cho cương giới được bền vững. Tiếp theo, ông gửi thư cho Tuần phủ Quảng Tây để nhờ yễm trợ, rồi đốc quân đến Lạng Sơn, đánh bắt được ba viên chỉ huy của đội quân xiêu dạt trên là Trần Trường, Hoàng Ngọc Quang, Đặc Kim Long. Hoảng sợ, Lý Văn Xương, thủ lĩnh quân Tam Đường (Lai Châu) bèn cử người đến xin hàng.
Năm 1854, khi là Kinh lược sứ Bắc Kỳ, giặc Tống sang quấy nhiễu, cướp bóc ở Cao Bằng, ông chỉ huy quân sĩ đánh dẹp. Đang ở trận địa, ông bị bệnh phải về Hà Nội điều trị, rồi mất vào mùa thu năm ấy.Nguyễn Đăng Giai lâm bệnh nặng rồi chết tại Hà Nội. Thương tiếc, vua Tự Đức sai truy tặng ông hàm Thiếu bảo, ban tên thụy là Văn Ý. Năm Mậu Ngọ (1858), nhà vua cho thờ ông trong đền Hiền Lương tại Huế.
Không như thần thoại Hy Lạp, không như các dạng tôn giáo, tín ngưỡng khác, danh thần Việt Nam là người thực, là những nhân vật lịch sử có công lớn với dân tộc trong chiến đấu bảo vệ và mở rộng biên cương bờ cõi, chăm lo đời sống nhân dân, được sử sách lưu danh, được nhân dân thờ cúng ghi ơn. Truyền thống uống nước nhớ nguồn được lưu truyền từ đời này sang đời khác cũng là một dạng tín ngưỡng dân gian, được gọi là tục thờ cúng ông bà không phải quốc gia nào cũng có. Đây là một nét văn hóa, một tập quán đẹp, rất đáng trân trọng, cần được bảo tồn và phát huy. Và đây cũng là một dạng thức của tâm linh, cũng rất dễ bị thần thánh hóa dẫn đến tình trạng mê tín dị đoan của những kẻ trục lợi từ thánh thần bằng những chiêu trò lừa mị.
Với bề dày lịch sử, chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi, Quảng Bình là vùng đất có nhiều danh thần nhất Việt Nam. Đây chính là niềm tự hào của người dân Quảng Bình. Dưới góc nhìn về lịch sử, văn hóa, Danh thần là khối tài sản mà Quảng Bình được sở hữu mà không phải ở đâu cũng có.
Khí hậu khắc nghiệt tạo nên những hoang mạc bỏng cát đầy nắng gió; núi non hiểm trở, với nhiều hang động nổi tiếng thế giới, cùng nhiều tộc người thiểu số vẫn còn giữ được nét hoang sơ trong đời sống cộng đồng cùng những tập tục mang bản sắc văn hóa huyền bí của núi rừng chính là lợi thế phát triển du lịch của Quảng Bình.
Những điều trên đã tạo nên sự khác biệt và sẽ tạo nên những sản phẩm độc đáo cho ngành Công nghiệp không khói Quảng Bình. Có được tầm nhìn chiến lược và định hướng phát triển tốt, Quảng Bình sẽ là nơi cực kỳ hấp dẫn với khách du lịch./.

Thứ Tư, 15 tháng 8, 2012

DANH THẦN QUẢNG BÌNH (TT)


Cũng huyện Lệ Thủy, còn có Khâm sai tuần hành ngũ phủ Thỏa Lộc hầu Đặng Đại Độ. Ông là vị danh thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, quê ở làng Cư Triền - huyện Đăng Phong - phủ Quảng Bình, nay là làng Quảng Cư - huyện Lệ Thủy - tỉnh Quảng Bình.
Đặng Đại Độ nổi tiếng thông minh từ thuở nhỏ. Là người văn võ song toàn, Ông lại rất mực khiêm nhường, chăm chỉ học hành nên rất uyên thâm. Ông đỗ khoá thi Hương Tiến - học vị cao nhất xứ Đàng Trong bấy giờ - lúc còn rất trẻ, được bổ vào Văn Chức viện. Năm 1761, người Man (Chăm) dựa vào núi Thạch Bích cheo leo đầy lam sơn chướng khí để để chống lại triều đình. Đây cũng là đội quân có tổ chức, thiện chiến với lối đánh du kích thoắt, ẩn thoắt hiện làm quan quân vô cùng khiếp sợ. Chúa phong cho Ký lục dinh Bình Khang Đặng Đại Độ (được bổ quan năm 1748) làm tướng cầm quân đánh dẹp. Sau khi xem xét cẩn thận, nhận thấy họ chống lại triều đình do sự hà khắc, tham ô, nhũng nhiễu của quan lại địa phương nên ông lệnh cho quân sĩ không được lạm sát rồi bất ngờ đem quân chiếm lấy sào huyệt của họ. Quân Man choáng váng, khắp nơi bỏ chạy tan tác. Ông đóng quân ở lại rồi tiến hành chấn chỉnh quan lại địa phương và phủ dụ người Man. Chẳng bao lâu, họ kéo nhau ra hàng. Chúa khen ngợi, bổ làm Ký lục dinh Quảng Nam. Thời gian sau, lại bổ làm Ký lục dinh Trấn Biên - một trung tâm văn hoá, giáo dục, thương mại của chúa Nguyễn ở phía Nam. Giống như Hoàng Hối Khanh, Đặng Đại Độ làm quan nổi tiếng công minh, chính trực. Ở những nơi ông làm việc, quan tham và cường hào ác bá không chốn dung thân. Nhờ có tài điều tra nên ông tìm ra thủ phạm của nhiều vụ án phức tạp, đưa ra xét xử nghiêm minh theo phép nước, hợp lòng dân. Nhân dân tôn kính, ngợi ca:
Danh chính trực rạng ngời quan Ký lục
Đuốc công minh sáng rọi chốn quan đường
                                                                       (Dũng khí Đặng Đại Độ, Đinh Bằng Phi)
Ông là tấm gương sáng ngời về đức tính thanh liêm, luôn giữ cho nhân cách được vẹn toàn, không lợi dụng địa vị để chiếm công vi tư. Nhiều câu chuyện về ông được nhân dân ngưỡng mộ lưu truyền và đi vào sử sách. Nổi tiếng nhất là sử trạng được . Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam nhất thống chí ngợi khen là người “nổi tiếng về học hạnh”, Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam liệt truyện ghi lại, nội dung như sau:
Vào lúc Đặng Đại Độ làm Ký lục dinh Trấn Biên, có hai viên quan cai đội hầu cận chúa từ Phú Xuân đến Biên Hòa tìm ca nhi để đưa về kinh đô biểu diễn cho chúa xem. Chúng cậy thế là người tâm phúc của chúa nên hống hách, làm nhiều điều trái phép. Đặng Đại Độ tiến hành điều tra rồi thăng đường xử án. Với chứng cứ rành rành, chúng phải cúi đầu nhận tội. Yêu dân phải lấy việc trừ cái ác làm đầu nên ông đã ra lệnh giết rồi “bêu lũ tanh hôi hại dân giữa chợ” (Văn bia Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm, Huỳnh Ngọc Trảng). Biết mình đã xử trọng án vượt quyền thiên tử nên ông tự mặc áo đơn, đeo gông ngắn, đi bộ về kinh xin nhận tội. Người con đi theo, thấy cha dãi nắng dầm sương muốn thuê võng cáng nên nói:
- Chừng nào về đến kinh đô sẽ hay, còn bây giờ cha nên lên võng mà đi.
Ông nói:
- Lại có hạng tội nhân mong được nhàn hạ ư ?
Đi ròng rã hơn một tháng trời mới về đến kinh đô Phú Xuân với thân phận tội nhân. Ông đến Bộ Hình trình bày sự việc rồi xin vào ngục đợi tội. Bộ Hình đem việc tâu lên, chúa xem xét xong cho mời vào ra mắt. Thấy mặc áo tội nhân, chúa cấp cho triều phục. Ông xin chịu tội, chúa ủy lạo, dụ rằng:
- Khanh có tội gì, mà tự lao khổ thế ? Trước kia ta sai đi chọn một vài con hát để tiêu khiển lúc rỗi, không ngờ lũ tiểu nhân đi ra, cậy thế ức hiếp người ! Khanh giết đi là phải. Có tội gì đâu. Vậy bỏ qua việc ấy đi.
Lập tức, chúa phong Đặng Đại Độ làm Khâm sai tuần hành ngũ phủ - Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận - kiêm Tuần phủ Gia Định, được quyền “bãi hay thăng chức các quan lại” ở sáu phủ này. Lúc này, Đàng Trong kéo dài từ Quảng Bình đến Cà Mau, chia làm 12 dinh và một trấn. Mỗi dinh quản lý một phủ (riêng dinh Quảng Nam quản ba phủ). Điều đó cho ta thấy niềm tin của chúa Nguyễn đối với ông lớn biết chừng nào.
Uy danh lừng lẫy nhưng Đặng Đại Độ vẫn rất mực khiêm nhường, hết lòng tận tụy vì dân, vì nước, đến nỗi gục lên bàn làm việc mà chết. Hai con đưa ông về quê nhà, dọc đường quan lại và nhân dân bày hương án đón, bái biệt vị quan đáng kính. Chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếc thương, ban thụy Trung Cần và cho dựng bia ca ngợi công đức (lăng mộ ông đã được di dời về khu lăng mộ cổ của dòng họ).
Xưa nay vẫn có không ít những vị quan dũng cảm, dám vì công lý mà to gan đụng độ với các đấng quan trên, nhưng nghiêm với chính mình và tự xử chính mình như Đặng Đại Độ, quả thật là rất hiếm. Cuộc đời của ông đã vĩnh viễn khép lại từ lâu, nhưng khí khái của ông thì vĩnh tồn với đất Biên Hòa - Gia Định, với tất cả những ai khao khát quốc thái dân an”.
(Vẫn còn ạ )

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

DANH THẦN QUẢNG BÌNH (TT)


Vị thứ ba, tuy không là thành hoàng, nhưng được coi là ông tổ vùng Lý - Nhân – Nam, đó là  Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần - Hồ Cưỡng. Hồ Cưỡng sinh vào khoảng niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369), đời Trần Dụ Tông. Ông đã từng làm Giám Quân Tả Thánh Dực và Đại Trị châu lộ Diễn Châu. Cuối thế kỷ XIV, Hồ Cưỡng được Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) lúc bấy giờ với tước Đại Vương phong làm Chánh đội trưởng chỉ huy một đạo quân trên 2.400 quân vào đánh Chiêm Thành. Ông là vị tướng tài, đánh giặc nhiều nơi, thắng nhiều trận giòn giã ở cửa sông Nhật Lệ, Bàu Tró, Phú Hội... Nơi đây, Ông đã chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất đai và đã trở thành ông tổ họ Hồ khai canh vùng Lý - Nhân – Nam. Do lấy thêm một người vợ lẻ và sinh con, nên dòng họ Hồ ở Nhân Trạch từ đó được sinh sôi đông đúc. Ông đã được vua Khải Định phong sắc là “Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần” (Khải Định năm thứ 9 ngày 25 tháng 7, tức năm 1924). Sau khi sắc phong nhà Vua cho xây thành, cổng, lăng mộ (lăng mộ của ông ở đầu làng Nhân Trạch cách huyện lộ Bố Trạch chừng 3 km) và đề tặng bốn câu thơ trước bình phong lăng mộ ở Quảng Bình:
’’Ngũ giới nam dương quý khí ngọc cửa thần
Thiên văn uy lệ quý hiền dâng chi mục
Huyết hoàng quy thủy quý thiết ví lâm vi
Nhật nguyệt như oai quý nhân trường thủy địa’’
Trong miếu thờ ở khuôn viên mộ họ Hồ còn có câu: “Thần Hiền khai khẩn Lý - Nhân – Nam”.
Danh thần Đào Duy Từ (1572 - 1634), được chúa Nguyễn truy phong công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu. Do có công lớn giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong. Ông là nhà quân sự và nhà văn hoá đại tài thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Năm Canh Ngọ 1630, ông chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Đây là chiến lũy quan trọng, giúp chúa Nguyễn có thể phòng thủ hiệu quả trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.
Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, quê ở làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là Vân Trai, Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Là người tinh thông sử sách, có tài văn võ nhưng không được đi thi, do xuất thân từ con nhà ca kỹ. Ông uất ức rời quê hương vào Nam lập nghiệp. Ban đầu ông phải đi ở chăn trâu cho nhà chủ giàu có ở Bình Định. Ông chủ là người ham mê văn chương, thấy Đào Duy Từ có tài, nên đã tiến cử  ông cho quan Khám lý Trần Đức Hòa. Mến tài của Đào Duy Từ, Trần Đức Hòa đã gả con gái cho Ông, đồng thời tiến cử Ông cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau cuộc gặp gỡ, trò chuyện, thấy được tài đức của Đào Duy Từ, Chúa Sãi đã phong cho Ông làm Nha uý Nội tán. Được Chúa Nguyễn tin tưởng, trọng dụng, Ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa.
Sinh thời, Đào Duy Từ sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ, và nhiều ca khúc rất giá trị; biên đạo một số điệu múa được lưu truyền rộng rãi. Ông là người Việt đầu tiên làm thơ lục bát và là người có công phát triển nghề hát bội ở Đàng Trong, là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu. Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ" và "Ngọc Long cương vãn" (văn học). Năm 1634, ông bị ốm nặng và mất. Mặc dù không phải là người Quảng Bình, nhưng là người có công rất lớn nơi vùng đất này, nên được nhân dân yêu quý, tôn trọng và được xếp vào danh nhân tiêu biểu của Quảng Bình
Cùng thời với Đào Duy Từ còn có Phật Bồ Tát Nguyễn Hữu Dật (1604–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn ở Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Cha ông là quan tham chiến Triều Văn Hầu Nguyễn Triều Văn, vì bất mãn với chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, nên theo phò chúa Nguyễn vào Đàng trong. Bước dừng chân đầu tiên của dòng Nguyễn Hữu vào năm 1609 do Triều Văn Hầu định hướng là đất Quảng Bình. Khi ấy người con trai thứ năm của Triều Văn Hầu là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật mới được 6 tuổi. Ông là người có công phò tá chúa Nguyễn, đánh thắng nhiều cuộc nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Nguyễn Hữu Dật quê ở Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hoá. Thuở nhỏ Nguyễn Hữu Dật thông minh, trí nhớ hơn người. Lớn lên Ông giỏi văn chương, lại thích võ nghệ. Cha ông thấy được năng khiếu của con muốn được phát huy, nên mời thầy về dạy học. Được võ sư tận tâm truyền thụ các binh thư, binh pháp cũng như võ nghệ, 16 tuổi Ông đã lừng danh văn chương võ lược nên được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên  (1613-1635) bổ nhiệm làm chức quan văn trong triều, sau trở thành vị tướng xuất sắc có nhiều mưu lược. Do có tài, được bổ nhiệm giữ chức vụ sớm nên ông nảy sinh tính tự cao, Chúa Sãi cho bãi nhiệm rời Triều. Nhưng sau xét thấy tài năng của ông cần được sử dụng, nên Chúa vời lại Triều và cho giữ chức vụ cũ. Sau đó, ông được thăng chức Tham cơ vụ, được tham dự các cuộc họp bàn việc cơ mật và đã đóng góp nhiều ý kiến có lợi cho việc triều chính. Khi được chuyển làm Giám chiến, Ông nhiều lần chỉ huy nghĩa quân liên tiếp đánh quân Trịnh và dành được nhiều thắng lợi. Năm Mậu Tý (1648) nhận chức Cai cơ lãnh ký lục dinh Bố Chính, sau thăng Đốc chiến, tước Chiêu Vũ hầu, cùng Nguyễn Hữu Tiến đem quân ra Bắc Hà, chiếm được đất hai huyện thuộc Nghệ An; rồi đem quân về vẫn trấn đạo Lưu Đồn (nay là Dinh Mười, xã Gia Ninh).
Nguyễn Hữu Dật đã dùng thư giả để ly gián, làm cho nội tình quân Trịnh không tin tưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, cũng chính từ đây đã dẫn đến việc Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần nghi Ông có ý đồ, mưu hàng Chúa Trịnh và bị tống giam vào ngục. Trong ngục ông đã sáng tác tập Hoa vân cảo thị lồng tâm trạng của mình vào cốt truyện. Chúa Hiền đọc được hiểu tấm lòng trung thành của ông, bèn cho ra khỏi ngục, phục hồi chức tước như cũ.
Đào Duy Từ biết Nguyễn Hữu Dật là người tài giỏi, có con mắt chiến lược của nhà quân sự nên đã cùng Ông bàn luận và được Chúa Sãi chuẩn y, hạ lệnh cho quân dân phủ Quảng Bình đắp lũy đắp Lũy Thày, một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn, vốn có lực lượng mỏng hơn, cầm cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1635, Đào Duy Từ mất, Nguyễn Hữu Dật tiếp tục trùng tu Lũy Thày và Lũy Trường Dục. Ông tiếp tục xây dựng thêm Lũy Động Cát (tức Lũy Trường Sa) để củng cố tuyến phòng thủ, lũy An Náu năm 1661 . Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật văn võ toàn tài, lúc làm tướng có nhiều công lớn, đánh đâu được đấy, ví như Khổng Minh nhà Thục Hán và Lưu Bá Ôn nhà Minh vậy.
Mùa xuân, năm Tân Dậu (1681), Nguyễn Hữu Dật mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là Chiêu quận công, thuỵ là Cần Tiết. Nguyễn Hữu Dật là người có công lớn đối với Quảng Bình, được nhân dân Quảng Bình tin yêu, cảm động đức độ của ông, gọi ông là Phật Bồ Tát, lập đền thờ ở Xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc), gọi là đền Tĩnh Quốc công.

(vẫn còn... )

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

DANH THẦN QUẢNG BÌNH


Và đây là "món" thứ 2 KT đem đến hội thảo. Cũng chỉ mang tính lược kê, nhưng ở 1 góc nhìn khác về DANH NHÂN QUẢNG BÌNH, đó là góc nhìn tâm linh.
Mời các bạn thưởng thức tiếp!

DANH THẦN QUẢNG BÌNH
 Không chỉ là nơi giao thoa của các nền văn hóa cổ đại Hòa Bình, Đông Sơn và Sa Huỳnh, Quảng Bình còn là nơi có nhiều danh nhân võ tướng được phong thần nhất Việt Nam. Không nói đến những di chỉ khảo cổ về các nền văn hóa được khai quật, mà căn cứ vào những điều sử sách đã ghi, từ ngàn đời nay Quảng Bình luôn là mảnh đất thuộc tuyến đầu tổ quốc, nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt để giữ yên bờ cõi. Vì thế danh nhân Quảng Bình phần lớn đều xuất thân từ võ tướng, họ có công gìn giữ và mở mang bờ cõi. Với những công lao to lớn của mình, nhiều người trong họ được phong thần có những vị đã trở thành thần thành hoàng ở những nơi họ lập ấp chiêu dân. Ngoài ra, tên tuổi của họ cũng đã gắn liền với những di tích lịch sử văn hóa của Quảng Bình cũng như cả nước.
Vị thành hoàng của cả một vùng rộng lớn của huyện Lệ Thủy ngày nay là Quận công Hoàng Hối Khanh (1362 - 1407). Nguyên quán của ông ở xã Bái Trại, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá, đỗ khoa thi Thái học sinh (Tiến sĩ) năm Giáp Tý, niên hiệu Xương Phù 8 (1384) đời vua Trần Phế Đế.
Hoàng Hối Khanh là một danh tướng, một con người tài hoa nhân đức và hết sức đặc biệt của lịch sử dân tộc những năm cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV. Từ khi ra làm quan (1384) đến khi tuẫn tiết (1407), trên 23 năm làm quan dưới hai vương triều, trong đó có 16 năm dưới triều Trần Mạt và 7 năm ở vương triều Nhà Hồ, ông đã có những đóng góp rất lớn trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế. Điểm nổi bật trong cuộc đời làm quan của Hoàng Hối Khanh là luôn thanh liêm, chính trực, yêu thương nhân dân và được nhân dân vô cùng yêu mến. Ông thường xuyên đi xuống địa phương kiểm tra tình hình, răn dạy quan lại phải lấy lòng dân làm gốc, thông cảm với đời sống đói khổ của nhân dân, nghiêm trị bọn quan lại sách nhiễu dân lành, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Ông dùng chính sách khuyến nông, khuyến khích mọi ngươi cùng làm cùng hưởng, tích trữ quân lương để đề phòng khi có chiến tranh. Ông thường xuyên chăm lo tập luyện quân lính trong toàn dân, để khi có chiến tranh tất cả sẽ là chiến sỹ. Bằng những chính sách này ông đã biến tất cả mọi người thành người lính trung thành, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc.
Hoàng Hối Khanh đã tham gia giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều, nên hiểu rất rõ điểm mạnh điểm yếu của bộ máy Nhà nước. Ông cũng rất am hiểu tình hình xã hội, đời sống nhân dân suốt từ Bắc vào Nam, do từng làm việc ở rất nhiều địa phương trong cả nước. Khi làm An Phủ sứ Lộ Tam Đái, Hoàng Hối Khanh cho mở xưởng rèn đúc vũ khí, tuyển các thợ giỏi vào các công xưởng quân sự, chỉ huy đắp thành Đa Bang và đóng cọc ở sông Bạch Hạc để án ngữ quân Minh từ Tuyên Quang tiến sang. Thành Đa Bang hợp với hệ thống công trình thành luỹ dài gần 400km, kéo dài từ núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến sông Thái Bình làm thành hệ thống phòng thủ quy mô lớn. Khi xây dựng thành Đa Bang, Hoàng Hối Khanh đã kế thừa những kinh nghiệm xây dựng các hệ thống phòng thủ của tổ tiên. Có thể nói đối với lịch sử quân sự, đây là một công trình phòng thủ có quy mô lớn nhất, trên một bình diện rộng, đồ sộ gấp nhiều lần phòng tuyến Như Nguyệt thời Lý chống Tống. Với công trình phòng thủ này ông đã lưu tên mình vào danh sách những nhà quân sự tài ba của dân tộc. Ngoài tài năng chính trị, quân sự, ngoại giao, Hoàng Hối Khanh còn là nhà cải cách kinh tế táo bạo như bỏ phép đánh thuế ruộng đất và dân đinh, tăng cường dự trữ ngân khố quốc gia… Những chính sách tiến bộ này đã cứu vãn được một cuộc suy thoái tài chính trầm trọng do nhà Trần để lại.
Vị thành hoàng thứ hai làTrần Bang Cẩn (1314-1357). Trần Bang Cẩn là Thượng thư Đại Hành Khiển thuộc dòng tộc nhà Trần. Dưới thời vua Trần Minh Tông là người nhiều lần đánh thắng và dẹp yên quân Chiêm Thành, có công trấn giữ mảnh đất phía Nam của Đại Việt, chiêu dân lập ấp, xây dựng vùng đất mới, hướng dẫn khai phá đất đai, lập ra hai xứ Đông, Đoài của xã Quảng Lộc và một phần xã Quảng Hòa bây giờ. Với những đóng góp cực kỳ to lớn, được đánh giá là công thần đối với đất nước quê hương, phúc thần với nhân dân, Ông được phong các tước vị như: Bản thổ bình Lồi (dẹp giặc Chiêm Thành). Gia vương Trần Hành Khiển tăng Vĩnh Lộc Thành hoàng. Gia tăng Chính trực Hữu thiện Đôn ngưng.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyển II, kỷ nhà Trần, Ngô Sĩ Liên chép: ''Trần Bang Cẩn là vị Đại Hành Khiển thượng thư tả bộc xạ, là người tin thực, giữ gìn, giản dị, điềm tĩnh, không xa hoa”. Ngài khi còn sống được vua Trần ban cho bức tượng vẽ và bài thơ ca ngợi như sau:

“Dạng hình cốt cách nại đông hàn,
Tướng mạo đình đình diệc khả khan,
Phong lưu nhất đoạn hồn miêu tận,
Tâm lý nan miêu cánh cánh đan”.
Dịch thơ:
Dạng hình cốt cách tựa cây thông
Tướng mạo nghiêm trang cũng đáng trông
Mọi vẻ phong lưu tô được hết
Khôn tô choi chói tấm son lòng
Thành hoàng Trần Bang Cẩn không có hậu duệ, nhưng được dân làng hết lòng tôn kính, sự tôn kính đó được biểu hiện ở hai câu đối trong điện:
“Khai thác hình huân tồn giả sử
Công hoàng long cảo điệp triều ân”.
(Công ngài khai thác còn ghi nhớ
Ơn triều đình mãi mãi còn ghi).
Thành hoàng Trần Bang Cẩn là người có công đối với đất nước, quê hương; vì thế, qua các triều đại phong kiến đều được phong sắc và phong sắc nhiều lần. Hàng năm vào ngày giỗ Ông, tại làng Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch tổ chức lễ hội cúng Ông tại điện thờ. Đặc biệt, bên cạnh việc cúng tế, rước sắc, dân làng còn diễn lại sự tích lịch sử của Ông, để cho con cháu hiểu được công lao của tổ tiên. Theo đó còn có nhiều trò vui chơi giải trí và hát xướng. Việc thờ cúng này diễn ra rất lâu đời và vẫn bảo lưu cho đến ngày nay. Đây là một dạng tín ngưỡng khá đặc biệt mang nhiều yếu tố dân giã và cũng là môi trường tốt góp phần làm cho những xu hướng nghệ thuật dân gian nảy nở và phát triển, làm đậm đà bản sắc văn hóa địa phương. Điện thờ của ông còn là điểm tham qua du lịch văn hóa tín ngưỡng dân gian của Quảng Trạch nói riêng và Quảng Bình nói chung.
(Còn nữa đó nghe )

Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

THƯ CÁM ƠN CỦA BAN TỔ CHỨC


THƯ CÁM ƠN
Hội thảo khoa học quốc gia về Danh nhân Quảng Bình do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam đồng tổ chức ngày 30 tháng 7 năm 2012 tại thành phố Đồng Hới đã thành công tốt đẹp.
Hội thảo đã nhận được 88 bài tham luận chính thức và đã hội tụ được 88 nhà khoa học, nhà nghiên cứu, tác giả từ 6 Viện khoa học quốc gia, 12 trường đại học, nhiều cơ quan tổ chức khoa học ở các địa phương trong cả nước.
Hội thảo đã được Lãnh đạo và nhân dân tỉnh Quảng Bình đặc biệt quan tâm và đánh giá cao.
Ban tổ chức hội thảo trân trọng cám ơn Hội khoa học lịch sử Vệt Nam, Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam đã cùng UBND tỉnh Quảng Bình đồng tổ chức sự kiện đặc biệt quan trọng này. Trân trọng cám ơn Nhà Sử học Dương Trung Quốc - Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học lịch sử Vệt Nam, PGS. TS. Nguyễn Chí Bền - Viện trưởng Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam đã tham gia đồng chủ tọa hội thảo.
Hội thảo trân trọng cám ơn GS. TSKH. Nguyễn Hữu Đức - PGĐ. Đại học Quốc gia Hà Nội, GS. NGND. Lê Mậu Hãn, GS. NGND. Vũ Dương Ninh, Thiếu tướng, PGS.TS. Trịnh Vương Hồng - Nguyên Viện trưởng Viện LSQSVN, PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí - nguyên Vụ trưởng, Ban Khoa giáo Trung ương, PGS. TS. Phạm Xanh - Đại học Quốc gia Hà Nội, PGS. TS. Ngô Minh Oanh - Viện trưởng Viện Nghiên Giáo dục đã đến dự bằng tấm lòng nhiệt huyết đối với Quảng Bình và góp phần quan trọng vào sự thành công của hội thảo.
Ban tổ chức Hội thảo trân trọng cám ơn GS. NGND. Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội KHLSVN, GS.NGND. Đinh Xuân Lâm - PCT. Hội KHLSVN, GS. TS. Nguyễn Quang Ngọc - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại tá, PGS. TS. Trần Ngọc Long - Phó Viện trưởng Viện LSQSVN đã rất quan tâm đến Hội thảo ngay từ ban đầu, nhưng do điều kiện công tác không tham dự được.
Trân trọng cám ơn TS. Nguyễn Khắc Thái - Cố vấn Nội dung Hội thảo và các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các tác giả đã đến với Quảng Bình từ các cơ quan Trung ương đến địa phương, từ khắp mọi miền của Tổ Quốc bằng các công trình nghiên cứu, tham luận và tham gia Hội thảo.
Ban Tổ chức hy vọng sau Hội thảo, các nhà khoa học vẫn tiếp tục nghiên cứu về vùng đất và tiến trình lịch sử Quảng Bình phục vụ cho các hoạt động khoa học thiết thực chào mừng kỷ niệm 410 năm Quảng Bình hình thành và phát triển (1604-2014).
Trong quá trình tổ chức hội thảo, nếu có gì thiếu sót, bất nhã...kính mong các quý vị niệm tình lượng thứ bỏ qua.
Xin trân trọng cám ơn.
                                           TM. BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO
           TS. Nguyễn Đức
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

VỀ MỘT NGƯỜI KHẢ KÍNH


Đứng cùng mọi người ôôn cũng rứa, nhưng khi đứng 1 mình, thấy ôôn ngắn ngủn.
Trang phục đã kéo thước tấc của ôôn xuống. Có ý đồ chi không? Bởi có những lúc ôôn tự nhận mình là lão lùn trong thiên hạ cố tình cao.
Biết ôôn, quý trọng sự uyên thâm của ôôn, nghe ôôn kể về những thăng trầm của cuộc đời, tôi càng nể phục. Có phải vì những thăng trầm ấy mà ôôn biết điều tiết trong ứng xử? Điều đó không phải ai cũng làm được.

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

SAU HỘI THẢO


Thế là đã về đến nhà. Đói và mệt cho 1 khoảng thời gian hết sức thú vị và ý nghĩa.
1 ngày hội thảo, 1 buổi thăm động Thiên Đường. Giá trị như nhau.
                 1.  Hội thảo: được nghe những ý kiến và tham luận của các nhà khoa học với những nội dung hết sức bổ ích về giao thoa và va đập giữa các tầng văn hóa, các biến động của lịch sử để tạo nên tố chất của danh nhân Quảng Bình…
TS Nguyễn Khắc Thái ( cố vấn hội thảo)
(ảnh "chôm" bên nhà Sen)
                  2.  Thăm động Thiên Đường: Kỳ quan của thiên nhiên. Lộng lẫy, kỳ vĩ bởi những dải, những dây thạch nhũ, những tháp, những linga, uni, những linh thú được tao nên từ thiên nhiên như trong thần thoại.
1 ngày nghỉ ngơi, thăm nhà tướng Giáp, 1 ngày cho quãng đường Đồng Hới - Đà nẵng để gặp bạn hiền sau 12 năm  tại Đà Nẵng  và 1 ngày rã rời (hôm nay), sau khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất đã vội cùng khách hàng xuống xưởng đến không kịp cả ăn uống.
Gần 1 tuần xa nhà. Nhớ tất cả những người thân yêu và cũng đầy ắp những ân tình với bạn bè mới quen. Nhất là cô “con  gái” Hà Sương hồn nhiên (giảng viên khoa Sử mới 24 tuổi, nguyên là sinh viên tài năng của ĐH Nhân văn TP HCM) đã cùng “mẹ” 1 đêm trắng với bao chuyện vui, ròn rã cả đêm đầy ắp tiếng cười. Ban đầu nói chuyện qua lại, con khen cô quá teen bởi sự hồn nhiên trong trẻo tiếng cười, khi được ban tổ chức tiếp đón nồng hậu với phần giao lưu “ôôn, mệ”. Cô khen con xinh xắn dễ thương, hồn nhiên trong sáng… Rồi câu chuyện nổ ra như bỏng ngô sau 2g sáng và mối quan hệ cũng thăng hoa lúc nào không biết, để biến thành "mẹ con" ngon lành, sau khi cả 2 cùng xong việc viết lách ("mẹ" làm tóm tắt tham luận cho buổi hội thảo Quốc Tế về Việt Nam Học sắp diễn ra tại Hà Nội, "con" làm báo cáo khoa học giúp bạn). 
Hai "mẹ con"
5 giờ sáng 2 “mẹ con” mới chợp mắt 1 chút, để 7g xuống ăn sáng và vào hội thảo. 2 cốc café sữa đậm cho 2 mẹ con giúp cho sự cân bằng “tâm thức” sau tô phở bò.
(Viết như đánh đố nhau. Ghét! )

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

TẶNG ĐỒNG ĐỘI CŨ


Anh (mặc áo đen) từ Úc về dự buổi họp mặt đơn vị hồi tháng 4/2009
                                                

Khi anh gọi e
Từ nghìn trùng xa cách
Chia sẻ
Về bế tắc vợ con.


Em lắng nghe,
Trêu chọc
Để anh cười.
Bảo đừng nóng,
Bảo tự rủa mình:
Sao anh quá đỗi ngu ...


Anh thở dài
Cay đắng,
Em cụt hứng chọc trêu
Lái qua chuyện chúng mình
Thuở nhỏ...

Tuổi 13
Em mới vào bộ đội,
Anh 18
Vừa rời phố thị,
Nên dễ gần
Dễ chia sẻ buồn vui...


Anh kể lại
Chuyện ngày xưa uýnh lộn,
Vật đè em
Xuống bụi rơm khô.
Em vùng vẫy
Mắt hằn tia giận
Cái ông này,
Sao ghét quá đi thôi!
Anh năn nỉ:
Bé ơi, thôi nhé!
Em mệt nhoài.
Im lặng.
Chớp thời cơ.
Anh chưa kịp quay lưng,
Em úynh tiếp bất ngờ
Anh bỏ chạy
Ôm vai
Kêu đau quá.
Em hả hê cười
Đắc thắng
Trẻ con
Vui


Sáu năm sau
Em trở về đơn vị
Anh ngỡ ngàng
Hồi hộp gọi
Bé ơi!
Ngoảnh mặt lại
Em cười vui hơn hở
Thật bất ngờ,
Ôi lâu quá đi thôi
Em hồn nhiên
Cười nói chẳng ngớt lời
Anh im lặng,
Bồi hồi
Tim xao động


Ngày xưa đó,
Em sao quên được
Khi tỏ tình
Anh bối rối vòng quanh...
Em thản nhiên
Từ chối,
Thản nhiên về.
Thản nhiên cầm bánh
Anh mua em ăn tối.
Thản nhiên cười
Khi anh xé lòng đau


Ngày xưa đó
Em đâu hiểu được
Nhức nhối lòng
Của kẻ đang yêu.
Ngày xưa đó
Em hồn nhiên
Như cỏ
Chẳng ấp e
Chẳng biết đòng đưa ...


Giờ cũng vậy,
Với anh như thuở ấy,
Vẫn tuổi 13
Nghịch ngợm
Trêu đùa
Dẫu già rồi
Sao cứ mãi tuổi thơ...

____________________________________

Tặng anh Minh Sơn, đồng đội cũ (Sau khi nghe anh chia sẻ chuyện gia đình. KT làm thơ gửi tặng
, anh đã rất vui).
Saigon: 12/12/2009